1.1. Đấu tranh đòi Mỹ - Diệm thi hành Hiệp định Giơnevơ (tháng 7/1954 - tháng 7/1956)
Sau chín năm chiến đấu đầy gian khổ và anh dũng, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân ta kết thúc thắng lợi. Hiệp định Giơnevơ được ký kết, cách mạng Việt Nam chuyển sang cuộc kháng chiến chống kẻ thù mới. Ngô Đình Diệm được Mỹ hậu thuẫn, phế truất Bảo Đại, hất cẳng Pháp, thanh toán lực lượng vũ trang các giáo phái, trắng trợn phá hoại Hiệp định, nhằm chia cắt lâu dài đất nước ta, biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới của Mỹ. Cũng trong thời gian đó, lực lượng của địch ở miền Bắc dồn dập kéo vào Nam, trong đó, có những tên phản động có nợ máu với nhân dân và hàng chục vạn đồng bào Công giáo bị lừa gạt, cưỡng bức di cư. Tình hình đó càng làm cho miền Nam nói chung, Bắc Tân Uyên nói riêng gặp nhiều khó khăn, phức tạp.
Để củng cố quyền lực, Mỹ - Diệm ráo riết xây dựng bộ máy chính quyền tay sai phản động từ Trung ương đến cơ sở, cải tổ lại quân đội, cảnh sát làm công cụ chủ yếu cho chính sách xâm lược theo kiểu thực dân mới. Nhằm tập hợp các lực lượng, hậu thuẫn cho chế độ, Diệm dựng lên Đảng Cần lao nhân vị, phong trào cách mạng quốc gia, Thanh niên Cộng hòa, Phụ nữ liên đới, Công đoàn Vàng,… Bên cạnh đó, chúng đẩy mạnh việc xây dựng các lực lượng an ninh, mật vụ, tâm lý chiến trực thuộc phủ Tổng thống; xây dựng bảo an, dân vệ, tự vệ hương thôn, triển khai đều khắp vùng nông thôn, căn cứ kháng chiến trước đây để kìm kẹp nhân dân, theo dõi, truy bắt những người kháng chiến nằm vùng và người dân yêu nước. Chúng chia nhỏ nông thôn thành ấp, khu, năm nhà thành một “ngũ gia liên bảo”; tổ chức mạng lưới chỉ điểm viên tận xóm, ấp để đánh phá cơ sở cách mạng, cài mật vụ, tình báo, tâm lý chiến đeo bám từng địa bàn, theo dõi, phân loại từng hộ dân nhằm loại mầm mống cộng sản ra khỏi nhân dân, tách nhân dân, nhất là nông dân ở nông thôn ra khỏi ảnh hưởng cách mạng. Chúng ra sức tuyên truyền gây chia rẽ trong nội bộ nhân dân, dân tộc, tôn giáo, khơi gợi lại hận thù; bao che, khuyến khích số ác ôn, có nợ máu trở lại trả thù nhân dân, những người kháng chiến… làm cho bầu không khí khắp miền Nam căng thẳng, ngột ngạt.
Để phù hợp với tình hình cách mạng miền Nam trong giai đoạn mới, tổ chức Đảng chuyển hoạt động vào bí mật, được sắp xếp, bố trí lại gọn nhẹ. Số cán bộ, đảng viên hoạt động công khai phải thay tên đổi họ, đổi ngành nghề, chuyển vùng hoạt động để che mắt địch. Các tổ chức cán bộ, đoàn thể, mặt trận được bố trí vào các tổ chức biến tướng, hợp pháp như hội banh, hội tương tế, hội phụ huynh học sinh, hội đình, chùa,… để nắm quần chúng, dựa vào vỏ bọc của quần chúng tạo thế hoạt động hợp pháp.
Cuối năm 1954, Xứ ủy Nam Bộ chủ trương tách tỉnh Thủ Biên, lập lại hai tỉnh Thủ Dầu Một và Biên Hòa. Tỉnh ủy Biên Hòa, do đồng chí Phạm Văn Thuận làm Bí thư; đồng chí Huỳnh Văn Lũy làm Phó Bí thư. Đến đầu 1955, Thường vụ Xứ ủy điều động đồng chí Vũ Ngọc Hồ (Bảy Hồng Vũ) từ Liên Tỉnh ủy miền Đông về làm Bí thư Tỉnh ủy Biên Hòa, đồng chí Phạm Văn Thuận làm Phó Bí thư. Một thời gian ngắn sau đó, đồng chí Phạm Văn Thuận lại thay thế làm Bí thư Tỉnh ủy.
Năm 1954, Huyện ủy Tân Uyên gồm các đồng chí: Huỳnh Văn Đính (Hai Đính): Bí thư, Mai Sơn Việt: Phó Bí thư, Võ Thế Đại: Ủy viên Thường vụ, Võ Văn Tạo, Trần Xuân Hà (Hà Tư): Huyện ủy viên. Đến năm 1955, Bí thư Huyện ủy là đồng chí Nguyễn Văn Tỏ. Các đồng chí khác trong Ban Chấp hành không thay đổi. Cũng trong thời gian này, bộ máy Đảng, Mặt trận và các đoàn thể bí mật các làng, xã cũng được tổ chức, sắp xếp lại.
Sau khi đã ổn định bộ máy lãnh đạo các cấp, Tỉnh ủy Biên Hòa ban hành Nghị quyết quy định hoạt động của các cán bộ Đảng từ tỉnh, huyện, xã phải thực hiện đúng nguyên tắc bí mật, công khai, bán công khai. Tỉnh ủy cũng đề ra chủ trương đấu tranh cách mạng trong giai đoạn mới là: Các cán bộ được bố trí ở lại phải bám trụ trong dân, tạo thế công khai hợp pháp, dựa vào pháp lý của Hiệp định Giơnevơ để lãnh đạo quần chúng đấu tranh chính trị, đòi dân sinh, dân chủ, đòi hiệp thương tổng tuyển cử thống nhất đất nước; bảo vệ cán bộ, bảo vệ tính mạng và tài sản, quyền lợi của nhân dân, chống địch khủng bố, bắt bớ. Các cuộc đấu tranh dù nhỏ hay lớn đều phải tranh thủ lôi kéo gia đình binh sĩ về phía nhân dân, xây dựng gia đình binh sĩ thành “ngòi pháo” trong các cuộc đấu tranh. Tỉnh ủy Biên Hòa cũng quan tâm đúng mức đến công tác binh vận và chỉ đạo rút cán bộ tăng cường cho công tác này. Tại huyện Tân Uyên, đồng chí Mai Sơn Việt, Phó Bí thư Huyện ủy được phân công phụ trách Ban Binh vận huyện.
Thực hiện chủ trương của trên, lợi dụng chính quyền Sài Gòn “trưng cầu dân ý” bầu Hội đồng hương chính các xã trong huyện, chi bộ các xã đã lãnh đạo giới thiệu người của ta ra ứng cử và vận động nhân dân bỏ phiếu cho những người này. Nhiều xã ở Bắc Tân Uyên như Tân Hòa, Tân Bình,… chính quyền Sài Gòn mới bầu lên đa số là người của ta. Thông qua những cơ sở cài được vào những cơ quan địch, ta nắm tình hình, đối phó kịp thời các âm mưu, thủ đoạn của địch hoặc khi địch thay thẻ căn cước, giấy thông hành, ta đã làm giấy tờ hợp pháp cho một số cán bộ, tránh được sự truy quét của địch.
Từ khi bắt đầu thay chân thực dân Pháp, đế quốc Mỹ đã nhận thức Chiến khu Đ là một căn cứ địa của cách mạng, uy hiếp trực tiếp các cơ quan đầu não của chúng ở miền Đông và Sài Gòn. Do vậy, một trong những mục tiêu hàng đầu của Mỹ - chính quyền Sài Gòn là triệt phá và chia cắt Chiến khu Đ. Trong hai năm 1954-1955, Mỹ - Diệm đã cưỡng bức hơn 150 ngàn đồng bào theo Công giáo từ miền Bắc vào bố trí dọc lộ 1, 15, 20 cửa ngõ Sài Gòn và ngoại vi Chiến khu Đ. Ngay trong căn cứ, Diệm bố trí gần một vạn đồng bào Công giáo di cư chủ yếu thuộc hai tỉnh Thái Bình và Hải Hưng để thành lập xã Thái Hưng (thuộc địa bàn xã Lạc An - xã trung tâm của Chiến khu Đ).
Ngoài ra, hàng loạt dinh điền được địch lập lên ở Khánh Vân, Sình, Bà Đã, Váng Hương, Bàu Cá Trê,… nhằm xây dựng một lực lượng chính trị làm hậu thuẫn cho chính sách thực dân mới, tạo ra mâu thuẫn giữa dân trong địa bàn Chiến khu và đồng bào Công giáo. Ở phía nam Chiến khu Đ, địch cho bọn tư sản và công chức cao cấp lập nhiều trại be với danh nghĩa khai thác lâm sản nhưng mục đích chính là phá rừng, ủi đường (nhiều đường ủi mang tên Trần Lệ Xuân) để xẻ ngang, cắt dọc Chiến khu Đ phục vụ yêu cầu kiểm soát, đánh phá vùng căn cứ kháng chiến.
Từ cuối năm 1954 đến đầu năm 1956, phong trào đấu tranh chính trị đòi quyền dân sinh, dân chủ, đòi thi hành Hiệp định Giơnevơ của nhân dân trong tỉnh phát triển mạnh ở cả vùng nông thôn, thị trấn, thị xã và trong công nhân cao su, chủ yếu đòi địch thi hành Hiệp định, chống trả thù những người kháng chiến cũ. Thực hiện sự chỉ đạo của Tỉnh ủy, ở các xã vùng nông thôn, ta vận động quần chúng đấu tranh đòi được lập ra các tổ chức hợp pháp như “Đội dân làng” chống trộm cướp, hội “âm công” lo giúp việc ma chay, hội cúng miếu, cúng đình, hội đá banh, hội đờn ca, hội hỗ trợ người nghèo giúp nhau sản xuất. Các tổ chức này đã thỏa mãn nguyện vọng của quần chúng, nhất là khi ta dựa vào quan hệ họ hàng, tín ngưỡng, sở thích,… để vận động.
Ngày 23/10/1955, Ngô Đình Diệm tổ chức “Trưng cầu dân ý truất phế Bảo Đại, lên làm Tổng thống”. Đồng bào khắp nơi trong tỉnh đã đấu tranh quyết liệt chống hành động này. Lực lượng tham gia đấu tranh chủ yếu là phụ nữ. Các xã Mỹ Lộc, Tân Hòa, Thường Lang, đảng viên đã lãnh đạo nhân dân kéo về quận đấu tranh. Đoàn biểu tình của xã Tân Tịch đi bằng ghe, xuồng bị địch chặn lại, đạp người xuống sông, cô bác lội lên bờ tiếp tục đi bộ đấu tranh. Địch nổ súng hăm dọa, đoàn biểu tình vẫn không chùn bước, hô vang các khẩu hiệu đấu tranh. Địch điều Tiểu đoàn bảo an 64 ra chặn lại, bắt anh Năm Thảo, bà Năm Độ, chị Năm Huê của xã Mỹ Lộc về bót. Đồng chí Năm Quyết dẫn đầu đoàn đấu tranh trực diện với quận. Đuối lý trước sức mạnh của quần chúng, địch phải thả những người bị bắt.
Ngày 04/3/1956, diễn ra bầu cử Quốc hội Việt Nam Cộng hòa. Tỉnh ủy chỉ đạo các địa phương vận động đấu tranh tẩy chay cuộc bầu cử bằng cách không đi bỏ phiếu, khi bị thúc ép phải đi thì bỏ phiếu trắng hoặc bôi bã trầu vào lá phiếu… Nhân dân các xã Tân Hòa, Mỹ Lộc, Thường Lang, Tân Tịch,… tổ chức phá thùng phiếu, xé phiếu, gạch chéo, bôi nước cốt trầu lên mặt hình Ngô Đình Diệm, gây gổ, cãi vã làm hỗn loạn nơi bầu cử, có nơi địch phải bắn súng chỉ thiên đe dọa.
Đến giữa năm 1956, sau khi xây dựng và củng cố bộ máy thống trị từ Trung ương đến các địa phương, ngày 07/7/1956, Diệm chính thức lên nắm chính quyền, công khai tuyên bố không hiệp thương tổng tuyển cử, đẩy mạnh chiến dịch “tố cộng, diệt cộng”, thẳng tay mở những cuộc “khủng bố trắng” trên toàn miền Nam. Ngày 10/7/1956, Mỹ - Diệm mở chiến dịch “Trương Tấn Bửu” đánh phá phong trào cách mạng ở các tỉnh miền Đông Nam Bộ.
Cùng với bọn tề điệp, bảo an, dân vệ, bọn đầu hàng chỉ điểm suốt ngày đêm càn quét, lùng sục khắp xóm làng vùng nông thôn, vùng căn cứ cũ và các đồn điền cao su lùng bắt cán bộ, đảng viên. Trên các trục lộ giao thông, chúng lập những trạm gác bố trí bọn phản động, đầu hàng chỉ điểm nhận dạng cán bộ ta đi lại hoạt động. Ở những nơi dân cư sinh sống tập trung, chúng liên tục đưa quân chà đi xát lại nhiều lần. Đi đến đâu cũng gom dân tập trung để tuyên truyền vu khống cách mạng, bôi nhọ hạ uy thế đảng viên và cán bộ kháng chiến. Chúng triển khai nhiều đợt học tập “tố cộng” kéo dài kết hợp khủng bố với dụ dỗ, mua chuộc, kêu gọi nhân dân tố giác cán bộ, đảng viên với khẩu hiệu thâm độc “tố cộng là yêu nước”.
Những cán bộ, đảng viên, những người kháng chiến cũ chẳng may bị bắt, sau những đòn tra tấn, chúng ép buộc ký tên ly khai khỏi Đảng, bắt quỳ trước đèn suốt đêm “sám hối”. Ai không chịu ly khai, sám hối, chúng tiếp tục tra tấn, công khai bắn giết hoặc bí mật thủ tiêu. Những gia đình cách mạng có chồng đi tập kết, chúng bắt vợ ly khai chồng, dùng bọn công dân vụ, mật vụ đến dụ dỗ, hù dọa, mua chuộc, khủng bố, cưỡng hiếp vợ, con. Địch đưa ra khẩu hiệu hành động: “Tiêu diệt nội tuyến, diệt trừ nội tâm”, “Đạp lên oán thù để thực hiện dân chủ, nhân vị quốc gia”, với phương châm: “Không, đánh cho có; có đánh cho chừa; thà giết nhầm hơn bỏ sót!”… nhằm thực hiện “đào tận gốc, trốc tận rễ cộng sản nằm vùng”.
Cùng với những hoạt động trên, Mỹ – Diệm còn thực hiện thanh lọc bộ máy chính quyền các cấp, khiến hầu hết cơ sở ta cài cắm trước đây lần lượt bị bắt hoặc bị đánh bật ra. Những người trung thành với cách mạng bị chúng bắt giam, đánh đập, giết hại; số khác may mắn kịp thoát được phải chuyển đi nơi khác làm ăn, sinh sống, rồi tìm cách móc nối với Đảng. Có người không giữ được khí tiết, phản bội đầu hàng làm tay sai cho giặc, chống lại nhân dân, chống lại cách mạng.
Tại tỉnh Biên Hòa, “không khí đau thương uất hận bao trùm khắp thôn xóm”[1]. Các cấp ủy Đảng từ tỉnh, huyện, xã ở Biên Hòa đều chấp hành tuyệt đối đường lối đấu tranh chính trị của Đảng, thể hiện cao ý thức tổ kỷ luật. Nhưng trước những hành động khủng bố trắng trợn, bắt người vô cớ, hàng chục cơ sở Đảng trong tỉnh bị phá vỡ. Các cụ già chí cốt với cách mạng gặp cán bộ ta cứ đề nghị cho diệt ác ôn. Do chấp hành chủ trương của Đảng, đa số cán bộ, đảng viên không dám manh động. Tuy nhiên, ở xã Tân Ba (Thái Hòa), Tân Bình,… Các đồng chí Mai Sơn Việt (Bảy Chí), Tám Hòa bí mật tổ chức các đội vũ trang trấn áp bọn phản động, cảnh cáo, trừng trị một số tên ác ôn ngoan cố. “Đảng cướp Rừng xanh” do hai ông Liễu, Bời chỉ huy được Tỉnh ủy Thủ Dầu Một vận động thuyết phục đã tự nguyện chịu sự lãnh đạo của Đảng qua liên hệ với tổ chức vũ trang của đồng chí Chín Quỳ ở Chiến khu Đ nhằm phối hợp diệt trừ ác ôn.
Nằm trong bối cảnh chung các tỉnh ở miền Đông Nam Bộ và Nam Bộ, ở Thủ Dầu Một từ giữa năm 1956 trở đi tình hình trở nên hết sức gay go. Chỉ qua vài tháng đầu chiến dịch Trương Tấn Bửu, lực lượng cách mạng bị tổn thất rất lớn. Phần lớn cán bộ, đảng viên ở cơ sở hoạt động công khai do sơ hở, mất cảnh giác đều sớm sa vào tay giặc. Nhiều xã không còn chi bộ. Một số huyện ủy cũng tổn thất nặng. Một số đồng chí trong Tỉnh ủy bị địch bắt như đồng chí Lê Đình Nhơn, Bí thư Tỉnh ủy bị bắt ngày 02/9/1956 tại Lái Thiêu. Cuối tháng 9/1956, đồng chí Võ Duy Hanh, Phó Bí thư Tỉnh ủy, đồng chí Lưu Thị Hồng Thoại, Tỉnh ủy viên phụ trách Trưởng ban giao liên căn cứ và đồng chí Diệp Hòi, Chánh Văn phòng Tỉnh ủy cũng bị những tên đầu hàng phản bội chỉ điểm cho địch lùng bắt. Tình trạng đó dẫn đến đảng viên, cán bộ, quần chúng hăng hái nhiệt tình thì dễ bị sa lưới, hoặc chỉ nằm hầm thụ động chờ đợi thời cơ. Một số đồng chí vốn tích cực dần dần trở thành tiêu cực, bi quan. Lúc này, như một số đồng chí đã nói là đấu tranh chính trị chỉ có “huề đến thua”. Phong trào đấu tranh chính trị của quần chúng ở một số nơi tạm lắng xuống”[2].
1.2. Từng bước vũ trang tuyên truyền, diệt ác, phá kìm, góp phần củng cố Chiến khu Đ (tháng 7/1956 - 1958)
Từ tháng 7/1956, Mỹ-Diệm tiếp tục đẩy nhanh tốc độ xây dựng chính quyền, quân đội; đưa vũ khí và cố vấn Mỹ vào miền Nam ngày càng nhiều; đẩy mạnh việc xây dựng căn cứ quân sự, xây dựng bộ máy kìm kẹp xuống tận cơ sở, từng khu, ấp và các “liên gia”, trọng tâm là tập trung tiêu diệt lực lượng yêu nước và cách mạng ở miền Nam mà Diệm gọi chung là “cộng sản”.
Tháng 6/1956, Bộ Chính trị đã nhận định, Mỹ - Diệm đã hoàn toàn làm chủ ở miền Nam. Đó là chính quyền độc tài, phát xít của bọn tư sản mại bản và phong kiến thân Mỹ, phản động. Miền Nam đã trở thành thuộc địa và căn cứ quân sự của Mỹ. Chúng đang âm mưu chia cắt lâu dài đất nước ta và chuẩn bị chiến tranh; các quyền tự do, dân chủ ở miền Nam bị bóp nghẹt; phong trào cách mạng miền Nam đang bị Diệm tấn công, tiêu diệt. Mâu thuẫn chủ yếu ở miền Nam lúc này là giữa nhân dân và chính quyền Mỹ - Diệm. Từ nhận định trên, Trung ương chủ trương tiếp tục đấu tranh bằng phương pháp hòa bình. Nghị quyết Trung ương cũng đề ra nhiệm vụ xây dựng căn cứ làm chỗ dựa. Đồng thời, xây dựng cơ sở quần chúng vững mạnh làm điều kiện căn bản để duy trì và phát triển lực lượng vũ trang.
Tháng 12/1956, căn cứ vào “Đề cương cách mạng miền Nam” của đồng chí Lê Duẩn, đối với miền Đông Nam Bộ, một địa bàn chiến lược, Xứ ủy triển khai các chủ trương về đấu tranh cho các địa phương moi súng, xây dựng lực lượng vũ trang. Đồng chí Nguyễn Hữu Xuyến được Xứ ủy cử về miền Đông thực hiện nhiệm vụ thống nhất các lực lượng vũ trang. Hai đồng chí Lâm Quốc Đăng, Lê Thanh phụ trách việc xây dựng căn cứ trên địa bàn miền Đông Nam Bộ. Đến năm 1957, miền Đông Nam Bộ đã hình thành các vùng căn cứ lớn: Căn cứ Đông Bắc gồm Chiến khu Đ (cũ) được mở rộng lên giáp biên giới Việt Nam - Campuchia, sau gọi là Khu A. Vùng căn cứ Tây Bắc gồm căn cứ Dương Minh Châu (cũ) và rừng núi tỉnh Tây Ninh sau gọi là Khu B. Khu căn cứ Thị Tính, Long Nguyên (Bến Cát) gọi là Khu C. Các căn cứ núi Mây Tàu, Hắc Dịch, rừng Sác sông La Ngà là Khu E. Từ Chiến khu Đ (Khu A) đường liên lạc bộ được nối thông với các căn cứ.
Ở Thủ Dầu Một, sau khi hình thành hai trung đội võ trang vào cuối năm 1956, đầu năm 1957, Tỉnh ủy chỉ đạo triển khai và mở rộng căn cứ lên địa bàn phía bắc của tỉnh. Một bộ phận lực lượng vũ trang của tỉnh từ căn cứ Hác Măng, Bà Tòng bí mật cắt rừng mở đường lên suối Đá - Bà Tứ nối với căn cứ Hố Mên, xã Long Nguyên, sau đó phát triển mở rộng tới gần Chơn Thành, Nha Bích sang Đồng Xoài kéo xuống vùng An Linh, Phước Sang... hình thành đường dây giao liên nối liền Chiến khu Đ với căn cứ Long Nguyên, qua Chiến khu Dương Minh Châu tỉnh Tây Ninh. Đường mở đến đâu tổ chức cán bộ chốt lại xây dựng căn cứ, móc nối cơ sở cách mạng để lo hậu cần đến đó. Lực lượng mở đường, xây dựng căn cứ trên tuyến đường bí mật này trở thành lực lượng đảm nhận việc liên lạc, dẫn đường đưa đón, bảo vệ cán bộ từ các vùng tới Biên Hòa, Bà Rịa cũng như từ Lái Thiêu, Thủ Đức về Liên Tỉnh ủy miền Đông.
Vào lúc 17 giờ ngày 02/12/1956, đồng chí Nguyễn Trọng Tâm (Bảy Tâm), Bí thư Đảng ủy nhà lao Tân Hiệp (Biên Hòa) sau khi bắt được liên lạc với Tỉnh ủy Biên Hòa đã lãnh đạo các chiến sĩ cách mạng và người yêu nước bị địch giam giữ nổi dậy cướp súng địch, phá trại giam. Hơn 400 người đã cướp được trên 40 khẩu súng thoát khỏi nhà tù của giặc, 21 cán bộ, đảng viên và người yêu nước đã hy sinh trước cửa trại giam. Khi đến rừng Tân Định (nay thuộc Vĩnh Cửu), Đảng ủy quyết định phân tán đoàn, mỗi tỉnh sẽ lập một chi bộ và tìm cách đưa các đồng chí về địa phương để tiếp tục hoạt động. Thực hiện sự chỉ đạo của Tỉnh ủy Biên Hòa, Huyện ủy Tân Uyên, Vĩnh Cửu, Long Thành đã tổ chức các tổ liên lạc, dẫn đường cùng nhân dân các xã quanh vùng tận tình giúp đỡ, cung cấp lương thực, che giấu, dẫn đường cho anh em tù vượt ngục tránh né vượt khỏi vòng vây truy lùng gắt gao của địch một cách an toàn. Hơn 400 cán bộ, đảng viên mang theo trên 40 khẩu súng là những cán bộ, đảng viên, chiến sĩ kiên cường được bổ sung cho các tổ chức Đảng và lực lượng vũ trang cách mạng đang nhen nhóm ở Chiến khu Đ cũng như một số địa phương khác.
Năm 1957, Tỉnh ủy Biên Hòa chuyển đồng chí Nguyễn Văn Tỏ, Bí thư Huyện ủy Tân Uyên về làm Bí thư Huyện ủy Châu Thành. Đồng chí Ngô Tiến (Ba Lộc), Bí thư Huyện ủy Long Thành về làm Bí thư Huyện ủy Tân Uyên thay đồng chí Nguyễn Văn Tỏ. Phó Bí thư Huyện ủy Tân Uyên là đồng chí Mai Sơn Việt.
Từ năm 1958, Tỉnh ủy chuyển đồng chí Ngô Tiến về làm Bí thư Huyện ủy Xuân Lộc; chuyển đồng chí Trần Xuân Hà (Hà Tư) về làm Bí thư Huyện ủy Tân Uyên. Phó Bí thư là đồng chí Mai Sơn Việt. Thời gian này, đồng chí Nguyễn Văn Luông được bổ sung vào Ban Thường vụ Huyện ủy thay đồng chí Võ Thế Đại về công tác đặc biệt cho Tỉnh ủy. Về sau, đồng chí Trần Xuân Hà chuyển qua làm Bí thư Huyện ủy Long Thành (tháng 5/1959, Hà Tư đầu hàng, dẫn địch đến bắt một số cán bộ, đảng viên ở hai huyện Tân Uyên và Long Thành[3]).
Về phía địch, sau khi kết thúc chiến dịch “Trương Tấn Bửu”, chúng mở tiếp cuộc càn “Sao Mai”, tập trung đánh phá vùng nông thôn và vùng căn cứ cũ, thực hiện gom dân lập các “khu trù mật” bắt thanh niên đi lính, hoặc tham gia vào các tổ chức phản động như “Thanh niên cộng hòa”, Phụ nữ liên đới”, “Phòng vệ quốc gia”. Tháng 3/1957, Mỹ - Diệm dùng xe ủi mở đường từ Cây Gáo lên Mã Đà để chia cắt, đánh phá căn cứ Chiến khu Đ.
Nhằm hỗ trợ cho phong trào đấu tranh chính trị, các đơn vị vũ trang của Xứ ủy, miền Đông đã phối hợp với các lực lượng vũ trang địa phương thực hiện một số trận đánh gây tiếng vang lớn, thu được một số vũ khí, lương thực… Đó là các trận Bến Củi (Dầu Tiếng) tháng 5/1957, trận Minh Thạnh ngày 10/8/1957, trận tiến công vào trại Be (Biên Hòa) ngày 18/9/1957,…
Phát huy thắng lợi về mặt quân sự, những tháng cuối năm 1957, hai Tỉnh ủy Thủ Dầu Một và Biên Hòa chủ trương phát động phong trào “phá u tối” để cải thiện tình hình và khôi phục lại phong trào ở cơ sở. Trong hai năm 1957-1958, những cán bộ, đảng viên bị lộ rút ra rừng căn cứ. Một số xã thuộc Bắc Tân Uyên hình thành các tổ diệt ác, tham gia diệt ác ôn ở địa phương. Hàng chục tên ác ôn có nợ máu với nhân dân đã bị đền tội như cảnh sát Dự, cảnh sát Nhượng (ở Tân Hòa), tên Thơm, Sáu Búa (ở Giáp Lạc); Diều (ở Lạc An),…
1.3. Tham gia phong trào Đồng Khởi (1959-1960)
Giữa lúc cách mạng miền Nam đang trải qua thời kỳ đen tối, tháng 01/1959, Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa II) tiến hành Hội nghị lần thứ 15 mở rộng đề ra Nghị quyết quan trọng về đường lối cách mạng miền Nam. Trong đó, xác định con đường phát triển cơ bản của cách mạng Việt Nam ở miền Nam là khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân. Theo tình hình cụ thể và yêu cầu của cách mạng thì con đường đó là lấy sức mạnh của quần chúng, dựa vào lực lượng chính trị của quần chúng là chủ yếu, kết hợp với lực lượng vũ trang để đánh đổ quyền thống trị của đế quốc và phong kiến, dựng lên chính quyền cách mạng của nhân dân. Nghị quyết 15 của Trung ương Đảng ra đời đáp ứng đòi hỏi của cách mạng và nguyện vọng chính đáng của cán bộ, đảng viên, nhân dân miền Nam, mở đường cho cách mạng miền Nam chuyển lên thế tiến công, bước sang giai đoạn mới.
Đồng thời đó, từ giữa năm 1959, Trung ương Đảng đã lần lượt cử các đoàn cán bộ gồm các đồng chí miền Nam tập kết ra Bắc năm 1954 xoi đường vào Nam để liên lạc với Xứ ủy Nam Bộ. Nhận được điện của Trung ương, Xứ ủy, Khu ủy miền Đông đã cử hai đội vũ trang từ Chiến khu Đ cắt rừng về hai hướng Bắc và Đông Bắc để đón các đồng chí xoi đường từ miền Bắc vào, đồng thời, nối thông hành lang từ Chiến khu Đ ra Nam Tây Nguyên. Đến tháng 12/1960, đội vũ trang tuyên truyền của Xứ ủy đã bắt được liên lạc với đoàn xoi đường của Trung ương vào tại Km5, quốc lộ 14B. Con đường chiến lược Trung ương - Nam Bộ từ Trường Sơn vào Đông Nam Bộ đã được khai thông. Chiến khu Đ trở thành trạm trung chuyển, nơi đón nhận cán bộ, khí tài, lương thực,… của hậu phương lớn miền Bắc vào chiến trường Nam Bộ.
Tháng 11/1959, Xứ ủy Nam Bộ triệu tập Hội nghị (mở rộng đến Bí thư Tỉnh ủy) tại Trảng Chiên (Rùm Đuôn - Tây Ninh) để học tập quán triệt nội dung cơ bản Nghị quyết 15 của Ban Chấp hành Trung ương và đề ra phương hướng thực hiện Nghị quyết trong tình hình thực tế ở Nam Bộ. Xứ ủy đã đề ra cho toàn Đảng bộ Nam Bộ phải nhanh chóng phát triển lực lượng vũ trang để làm nòng cốt cho toàn dân thực hiện đồng khởi.
Đầu tháng 02/1960, tại rừng Thái Hòa (Tân Uyên), Tỉnh ủy Biên Hòa họp Hội nghị mở rộng để triển khai Nghị quyết 15 và Nghị quyết của Xứ ủy Nam Bộ. Hội nghị Tỉnh ủy đã đề ra nhiệm vụ quan trọng là phát động quần chúng nổi dậy phá tan bộ máy kìm kẹp của địch, diệt ác phá kìm, trấn áp bọn phản cách mạng, hạ uy thế địch, nâng cao uy thế quần chúng. Qua phong trào nổi dậy của quần chúng, chọn người xây dựng, phát triển thực lực cách mạng, phát triển lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang. Sau thời gian bị khủng bố ác liệt của địch, thực hiện Nghị quyết 15 của Trung ương Đảng, Biên Hòa gặp những khó khăn. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Biên Hòa chỉ còn 5 đồng chí, đồng chí Lê Quang Chữ (Năm Chữ) làm Bí thư, đồng chí Nguyễn Trọng Cát (Ba Bắc) làm Phó Bí thư. Tỉnh ủy viên có các đồng chí Nguyễn Văn Luông (Sáu Phát) - Bí thư Huyện ủy Vĩnh Cửu, Ba Tình - Bí thư Huyện ủy Tân Uyên. Tuy nhiên, căn cứ vào tình hình cụ thể trong tỉnh, Tỉnh ủy chỉ đạo: Cần sử dụng ngay lực lượng vũ trang của tỉnh tiến hành một đợt vũ trang tuyên truyền, trọng điểm là các xã vùng Chiến khu Đ thuộc Bắc Tân Uyên. Đồng thời, khẩn trương chuẩn bị lực lượng mở rộng địa bàn hoạt động xuống vùng giáp ranh Vĩnh Cửu, bắt liên lạc với huyện Long Thành.
Ban Chấp hành Huyện ủy Tân Uyên lúc này do đồng chí Ba Tình làm Bí thư, Phó Bí thư là đồng chí Mai Sơn Việt cùng các Huyện ủy viên Lê Văn Trung, Nguyễn Văn Tài, Nguyễn Văn Phàn đã lãnh đạo nhân dân tiến hành cuộc đồng khởi trên phạm vi toàn huyện. Đầu tháng 3/1960, được sự hỗ trợ của lực lượng vũ trang, nhân dân các xã thuộc Bắc Tân Uyên như Thường Lang, Tân Tịch, Tân Hòa, Mỹ Lộc, do đồng chí Ba Tình trực tiếp chỉ đạo, đã đồng loạt nổi dậy đốt phá trụ sở tề, diệt bọn ác ôn. Làn sóng khởi nghĩa nhanh chóng lan rộng khắp vùng. Từ Đất Cuốc, Mỹ Lộc, Thường Lang đến Bình Mỹ, Phước Hòa, các đơn vị vũ trang của huyện, tỉnh tuyên truyền diệt ác, hỗ trợ phong trào quần chúng nổi dậy, đồng thời diệt một số bót địch ở Miếu Bà, Cầu Chùa, Đồi Trắng, Thợ Ụt,… du kích tiến hành đốt các cầu Vũng Cấm, rạch Rớ và rải truyền đơn kêu gọi bọn lính và tề xã thôi làm tay sai cho giặc. Hàng chục nam nữ thanh niên hăng hái thoát ly gia nhập bộ đội tỉnh, huyện và du kích các xã.
Kết hợp đấu tranh chính trị với hoạt động vũ trang, công tác binh vận cũng được đẩy mạnh và thu được kết quả ở nhiều nơi. Nhân dân phối hợp với các tổ vũ trang tuyên truyền đêm đêm phát loa kêu gọi binh lính trong đồn, bót trở về với gia đình; truy bắt, trừng trị những tên ác ôn có nhiều nợ máu với dân (6 Út, Bân, 5 Tàn ở Tân Hòa). Tại xã Tân Bình, đội vũ trang tuyên truyền xã kết hợp với cơ sở nội ứng (có 2 đảng viên, 2 đoàn viên) do chi bộ xã cài vào trước đó, diệt được tên đồn trưởng, tên thám báo, kêu gọi trung đội lính dân vệ đồn Nhà Đỏ mang 22 súng về với cách mạng. Cơ sở binh vận trong các dinh điền, trong dịp này cũng đẩy mạnh hoạt động xây dựng được một số cơ sở quần chúng trong đồng bào di cư theo đạo Công giáo, trong đó có linh mục Nguyễn Trinh Đoàn ở dinh điền Ích Tân (Hiếu Liêm), tích cực vận động đồng bào Công giáo mua thuốc men, gạo, vải,... cung cấp cho bộ đội, du kích trong căn cứ.
Tháng 9/1960, Xứ ủy Nam Bộ chủ trương sáp nhập hai tỉnh Biên Hòa và Thủ Dầu Một thành tỉnh Thủ Biên lần thứ 2, do đồng chí Lê Quang Chữ làm Bí thư Tỉnh ủy, đồng chí Võ Văn Đợi (Tư Đức) làm Phó Bí thư. Tỉnh ủy đóng tại Chiến khu Đ. Sau khi sáp nhập tỉnh, huyện Tân Uyên tách ra thành hai huyện: Tân Uyên 1 do đồng chí Phạm Hòa làm Bí thư, Tân Uyên 2 do đồng chí Vũ Khánh làm Bí thư.
Kết quả của phong trào Đồng khởi trên toàn miền Nam đã đưa tới sự chuyển biến về mặt chất lượng đối với phong trào cách mạng. Trong không khí sôi nổi của cách mạng, ngày 20/12/1960 tại Rùm Đuông, xã Tân Lập, huyện Châu Thành, Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam thành lập, do luật sư Nguyễn Hữu Thọ làm Chủ tịch. Mặt trận thành lập nhằm tập hợp mọi tầng lớp nhân dân, không phân biệt giai cấp, đảng phái, tôn phái, tôn giáo, xu hướng chính trị cùng đấu tranh chống đế quốc Mỹ và đánh đổ ách thống trị của bọn tay sai phản động, thực hiện độc lập, dân chủ, hòa bình, trung lập, tiến tới thống nhất Tổ quốc.
Chào mừng sự kiện lịch sử quan trọng này, các xã trong huyện Tân Uyên đã tổ chức mít tinh. Đồng chí Tám Rê thay mặt Huyện ủy kêu gọi mọi tầng lớp nhân dân đoàn kết xung quanh Mặt trận cùng chống đế quốc Mỹ xâm lược. Tại các xã Mỹ Lộc, Tân Hòa, Tân Tịch, Thường Lang, bọn lính từ Tân Uyên kéo đến định đàn áp cuộc mít tinh nhưng đến Dốc Chùa đã bị lực lượng vũ trang ta nổ súng diệt 2 tên, số còn lại rút chạy về quận lỵ. Kết thúc cuộc mít tinh, đông đảo đồng bào tham gia cuộc tuần hành đi qua bốn xã của Chiến khu Đ biểu dương khí thế của cách mạng.
Phong trào Đồng khởi năm 1960 đánh dấu bước phát triển mới của cách mạng toàn miền Nam. Thế và lực của cách mạng phát triển nhanh chóng. Thời kỳ cách mạng chuyển sang thế tiến công địch đã bắt đầu. Bắc Tân Uyên – vùng trung tâm của Chiến khu Đ ngày càng giữ vai trò quan trọng trong cuộc chiến mới.
2.1. Từng bước xây dựng, phát triển lực lượng cách mạng
Tháng 01/1961, Kennơđi thay Aixenhao làm Tổng thống Mỹ đã quyết định chuyển hướng chiến tranh Việt Nam sang chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” nhằm bốn mục tiêu cơ bản là: cô lập cách mạng miền Nam với miền Bắc; giành lại vùng nông thôn đã mất, đánh bật lực lượng vũ trang và cơ sở cách mạng ra khỏi nhân dân; nhanh chóng tiêu diệt lực lượng vũ trang và vùng căn cứ địa của cộng sản ở miền Nam; quấy rối, phá hoại miền Bắc bằng các hoạt động biệt kích, gián điệp, không cho miền Bắc yên ổn xây dựng để chi viện cho miền Nam.
Thực hiện theo ý đồ của Mỹ, chính quyền Diệm tổ chức lại chiến trường, chia lãnh thổ thành các vùng chiến thuật, kiện toàn các tiểu khu quân sự (cấp tỉnh), chi khu (quận, huyện), củng cố lại mạng lưới tình báo, gián điệp, hệ thống tề xã, ấp, chuyển bộ máy chính quyền hành chính cấp tỉnh, quận, huyện thành chính quyền quân sự do những tên sĩ quan cấp tá trung thành làm tỉnh trưởng nhằm phục vụ cho các cuộc hành quân càn quét, gom dân, bình định từng địa phương có hiệu quả hơn.
Trên địa bàn Chiến khu Đ, địch tăng cường lực lượng và đóng thêm đồn, bót, mở rộng Tiểu khu Phước Thành thành một cứ điểm quân sự mạnh, làm bàn đạp đánh phá, chia cắt căn cứ, tìm diệt lực lượng vũ trang cách mạng. Tiếp đó, ngày 13/4/1961, địch bố trí lại chiến trường, thành lập Khu chiến thuật 31 đảm nhiệm việc đánh phá cách mạng ở miền Đông, trong đó có hai tỉnh Phước Thành và Phước Long. Nhiều chốt quân sự được địch xây dựng trong căn cứ như Rẫy Gạch, Giáng Hương, Suối Ngang. Các chi khu Hiếu Liêm, Tân Uyên, Phú Giáo đều được tăng cường một đại đội pháo 105 ly để bắn phá vào căn cứ ta.
Tháng 01/1961, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp và vạch ra phương châm chiến lược của cách mạng miền Nam là đẩy mạnh hơn nữa đấu tranh chính trị đồng thời đẩy mạnh đấu tranh vũ trang lên song song với đấu tranh chính trị, tấn công địch bằng cả hai mặt chính trị và quân sự. Thực hiện Nghị quyết Bộ Chính trị và sự chỉ đạo của Trung ương Cục, tháng 02/1961, Bộ Tư lệnh Quân khu miền Đông (gọi là T1) quyết định thành lập Tiểu đoàn 800 chủ lực tập trung của Khu. Tiểu đoàn 800 gồm 600 quân với 3 đại đội bộ binh (Cl, C2, C3), 1 đại đội pháo, 1 đại đội trinh sát. Đây là tiểu đoàn chủ lực tập trung đầu tiên ở miền Đông Nam Bộ. Ban Chỉ huy tiểu đoàn gồm đồng chí Đặng Ngọc Sỹ (Hai Sỹ) là Tiểu đoàn trưởng, đồng chí Nguyễn Trọng Tâm (Bảy Tâm, Bảy BK) là Chính trị viên.
Tháng 3/1961, T1 được giao nhiệm vụ xây dựng căn cứ khu A (gồm Chiến khu Đ cũ mở rộng đến đông quốc lộ 13, mang phiên hiệu C150). Đảng ủy khu A gồm các đồng chí Lâm Quốc Đăng - Bí thư, Sáu Chuộng, Hồng Sơn, Năm Ninh. Đến tháng 9/1961, căn cứ khu A đổi phiên hiệu là U50 do đồng chí Hoàng Kim Khanh (Đào Sơn Tây) làm Bí thư Đảng ủy. Trong một thời gian ngắn, Đảng ủy đã chỉ đạo xây dựng được một xưởng quân giới ở Bàu Sắn nằm trên một nhánh suối Linh, cách đường Trần Lệ Xuân 14 km về phía Tây Nam, do đồng chí Bá phụ trách. Tổ thu mua do đồng chí Tư Ký phụ trách, triển khai mua nhiều hàng hóa ở vùng tạm chiếm Tân Bình, Vĩnh Tân. Việc mở rộng Chiến khu Đ và sự hình thành Đảng ủy Chiến khu theo sự chỉ đạo của Đảng là một bước phát triển mới trong vấn đề xây dựng, phát triển căn cứ địa. Từ đây, Chiến khu Đ ngày càng phát triển toàn diện nối liền với hậu phương lớn miền Bắc qua đường Trường Sơn, cùng với vùng căn cứ các tỉnh phía Đông tạo thành thế căn cứ liên hoàn, trở thành một hậu phương chiến lược ở miền Đông Nam Bộ. Nhân dân Bắc Tân Uyên đã tích cực đóng góp sức người, sức của góp phần xây dựng và bảo vệ Chiến khu.
Sau khi huấn luyện, củng cố, theo chỉ đạo của Khu ủy, Tiểu đoàn 800 đã mở đợt hoạt động đầu tiên, mục tiêu là Chi khu Hiếu Liêm nằm ở xã Lạc An, các đồn bót địch cắm trong căn cứ và vũ trang tuyên truyền hỗ trợ cho quần chúng nổi dậy diệt ác, phá kìm làm chủ xã, ấp. Sáng ngày 17-3-1961, Tiểu đoàn tiến công vào các bót Lạc An, uy hiếp bót Bà Cẩm, Sình, Bà Đã, Tân Hòa, Tân Tịch, Mỹ Lộc, phát động nhân dân nổi dậy diệt ác, phá kìm. Toàn bộ tề xã của chính quyền địch tan rã. Ta làm chủ một đoạn đường 16 và đường số 8, giải phóng một mảng lớn ở Tây Nam Chiến khu.
Chấp hành quyết định của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, sau một thời gian chuẩn bị, tháng 10/1961, tại Mã Đà, Trung ương Cục miền Nam được thành lập thay cho Xứ ủy Nam Bộ. Đồng chí Nguyễn Văn Linh được cử làm Bí thư Trung ương Cục. Các ủy viên: Võ Chí Công, Trần Nam Trung, Võ Văn Kiệt, Phan Văn Đáng, Lê Quang Xô, Trương Công Thuận, Phạm Thái Bường. Các cơ quan tham mưu của Trung ương Cục được thành lập để đẩy nhanh tốc độ phát triển các lực lượng cách mạng.
2.2. Đánh địch bình định, tham gia tiêu diệt Tiểu khu quân sự Phước Thành (1961-1962)
Từ tháng 10-1956, chính quyền Sài Gòn chia miền Nam thành 23 đơn vị hành chính. Hơn 2 năm sau, ngày 23/01/1959, Ngô Đình Diệm ban hành Sắc lệnh số 25-NV thành lập tỉnh Phước Thành. Trung tâm tỉnh lỵ đặt tại Phước Vĩnh (nay thuộc huyện Phú Giáo, tỉnh Bình Dương), do thiếu tá Nguyễn Minh Mẫn (con nuôi Diệm) làm Tỉnh trưởng. Diện tích của tỉnh khoảng 1.300km². Dân số gần 55.000 người. Tỉnh gồm 3 quận: Phú Giáo (có 6 xã, quận lỵ đóng tại Nước Vàng), Tân Uyên (có 12 xã, quận lỵ đóng tại Uyên Hưng) và Hiếu Liêm (có 4 xã, 2 vùng nhỏ và các dinh điền, quận lỵ đóng tại Lạc An).
Mỹ - Diệm thành lập tỉnh Phước Thành là nhằm biến tỉnh thành một tiểu khu mạnh; cùng với Chơn Thành, Bình Long, Đồng Xoài, Lộc Ninh, Phước Long tạo thành một hệ thống cứ điểm quân sự liên hoàn bao vây, chia cắt Chiến khu Đ với Chiến khu Dương Minh Châu (Tây Ninh) và nam Tây Nguyên; ngăn chặn sự chi viện của hậu phương miền Bắc xã hội chủ nghĩa đối với miền Nam.
Năm 1960, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân miền Nam phát động cuộc Đồng khởi, nhanh chóng đập tan bộ máy kìm kẹp của chính quyền Sài Gòn ở cơ sở và giành quyền làm chủ phần lớn vùng nông thôn và rừng núi. Tháng 9/1960, do yêu cầu của tình hình mới, Xứ ủy Nam Bộ chủ trương sáp nhập hai tỉnh Thủ Dầu Một và Biên Hòa thành tỉnh Thủ Biên. Tháng 6/1961, Khu ủy miền Đông quyết định giải thể tỉnh Thủ Biên và tổ chức lại thành ba tỉnh Thủ Dầu Một, Biên Hòa và Phước Thành.
Đối với ta, tỉnh Phước Thành có vị trí rất quan trọng, là cửa ngõ then chốt, yết hầu của Chiến khu Đ, ảnh hưởng đến cả chiến trường miền Đông Nam Bộ. Lúc mới thành lập, tỉnh Phước Thành có 2 huyện Tân Uyên 1 và Tân Uyên 2. Đến cuối tháng 7/1961, tỉnh đổi tên huyện Tân Uyên 1 thành Phú Giáo, Tân Uyên 2 thành Tân Uyên. Ban cán sự Đảng tỉnh Phước Thành gồm 3 đồng chí, do đồng chí Phan Văn Lâm (Út Lâm) làm Bí thư. Sau khi thành lập, Ban cán sự Đảng và các lực lượng của tỉnh đóng căn cứ tại xã Mỹ Lộc. Về lực lượng vũ trang, trên cơ sở được phân bổ một số đơn vị từ Đại đội 380 của tỉnh Thủ Biên (cũ), tỉnh Phước Thành hình thành Đại đội 301 của huyện Phú Giáo, Đại đội 302 của huyện Tân Uyên và Đại đội 303 tập trung của tỉnh.
Trước âm mưu và thủ đoạn của địch, Khu ủy và Bộ Tư lệnh miền Đông quyết định mở trận đánh lớn vào tiểu khu quân sự và tỉnh lỵ Phước Thành nhằm tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch, thu vũ khí để trang bị cho ta, bảo vệ căn cứ cách mạng, phá thế bao vây chia cắt giữa các vùng và giải thoát các chiến sĩ cách mạng, những người yêu nước đang bị địch giam giữ. Thực hiện sự chỉ đạo của Đảng bộ cấp trên, Ban Cán sự Đảng tỉnh Phước Thành và Tỉnh ủy Thủ Dầu Một đã triển khai kế hoạch phối hợp với bộ đội chủ lực trong trận đánh có ý nghĩa quan trọng này. Ban chỉ huy trận đánh cũng được thành lập. Đồng chí Nguyễn Hữu Xuyến (Tám Kiến Quốc) làm chỉ huy trưởng, đồng chí Việt Hồng làm chính ủy, đồng chí Đặng Ngọc Sĩ làm Chỉ huy phó, đồng chí Đặng Hữu Thuấn (Út Đặng) làm Tham mưu trưởng. Lực lượng tham chiến gồm có Tiểu đoàn 800 của Quân khu miền Đông, Đại đội 260 đặc công, trinh sát của Miền, phân đội pháo ĐK 57 ly của Miền và lực lượng vũ trang của địa phương như Đại đội 301.
Sau một thời gian chuẩn bị, 22 giờ 30 phút ngày 17/9/1961, 4 mũi tiến công chiếm lĩnh trận địa, áp sát mục tiêu và sẵn sàng đợi lệnh chiến đấu. Đúng 23 giờ, một tiếng nổ lớn của quả bộc phá 12kg làm sập một góc Dinh tỉnh trưởng là hiệu lệnh tiến công. Các mũi ào ạt xông lên, đánh chiếm các mục tiêu. Mũi Đại đội 59 đánh Dinh tỉnh trưởng. Mũi Đại đội 260 tấn công tỉnh đoàn bảo an (có 1 đại đội bảo an và 1 chi đội xe thiết giáp) bị địch phản kích quyết liệt, không phát triển được. Mũi Đại đội 80 đánh vào trại lính biệt động quân và một mũi tiến vào phá trại giam.
Sau hơn 1 giờ 30 phút chiến đấu, ta diệt và loại khỏi vòng chiến gần 1.000 tên (trong đó có Tỉnh trưởng Nguyễn Minh Mẫn), bắt sống hơn 400 tên (trong đó có Phó tỉnh trưởng và một số công chức hành chính), thu hơn 600 súng và các loại quân trang, quân dụng, phá hủy 2 khẩu pháo 105 ly, 16 xe quân sự (có 5 xe thiết giáp), 32 máy truyền tin, giải thoát cho hơn 300 cán bộ, đảng viên và đồng bào yêu nước đang bị địch giam giữ.
Chiến thắng trên là do Đảng và Đảng bộ địa phương có đường lối đúng đắn, táo bạo. Thời điểm này, toàn miền Đông chưa có trận đánh nào tập trung lực lượng lớn và mục tiêu đánh chiếm là tỉnh lỵ như trận Phước Thành. Nếu chiến thắng Tua 2 ngày 24/01/1960, ở Tây Ninh là trận tiến công đầu tiên của quân giải phóng vào một căn cứ quân sự cấp trung đoàn của địch thì chiến thắng Phước Thành là trận đánh đầu tiên của quân và dân miền Đông Nam Bộ tiêu diệt một tiểu khu quân sự của địch, chiếm lĩnh hoàn toàn một tỉnh lỵ của chính quyền Sài Gòn, nằm cách trung tâm đầu não của địch chỉ 55 km trong nhiều giờ.
Ngoài ra, tinh thần chiến đấu dũng cảm, không ngại hy sinh của các lực lượng vũ trang cách mạng cũng là một nguyên nhân không kém phần quan trọng. Thời gian đầu, ta gặp nhiều khó khăn khi phải đối phó với lực lượng biệt động quân và tỉnh đoàn bảo an rất mạnh nhưng đã chiến đấu với tinh thần quyết chiến, quyết thắng và tiêu diệt được kẻ thù.
Chiến thắng Phước Thành đã phá vỡ một cứ điểm quân sự, căn cứ xuất phát quan trọng của địch, đập tan âm mưu chia cắt Chiến khu Đ với các chiến khu khác, là tiếng chuông báo hiệu sự phá sản không thể tránh khỏi của chiến lược “chiến tranh đặc biệt” đế quốc Mỹ đang thực hiện ở miền Nam.
Ngoài ra, chiến thắng này đã đập tan bộ máy kìm kẹp ở tỉnh, giáng đòn phủ đầu vào kế hoạch gom dân, lập ấp chiến lược của địch vừa mới triển khai ở miền Đông Nam Bộ. Kết hợp với chiến thắng, Ban Cán sự Đảng tỉnh chủ trương mở đợt hoạt động gỡ đồn bót, phá thế kìm kẹp. Nhân dân Phước Thành và các vùng lân cận hưởng ứng chủ trương của Đảng bộ, nổi dậy phá rã, phá banh nhiều ấp chiến lược, cổ vũ phong trào cách mạng trong tỉnh và cả miền Đông phát triển.
Chiến thắng Phước Thành đã tạo điều kiện cho lực lượng vũ trang của địa phương ngày càng trưởng thành. Phát huy chiến thắng, đêm 18, rạng 19/9/1961, Đại đội 303 của tỉnh cùng du kích các xã Tân Hòa, Tân Tịch, Thường Lang, Mỹ Lộc kết hợp bao vây với binh vận bứt rút một số tua, bót địch đóng trên đường số 8 từ Hiếu Liêm đến Tân Uyên.
Chiến thắng Phước Thành đã để lại những kinh nghiệm bước đầu, góp phần cùng Đảng xây dựng đường lối chiến tranh nhân dân. Một là, phải làm tốt công tác Đảng, công tác chính trị để giáo dục, động viên chiến sĩ và đồng bào nêu cao tinh thần chiến đấu dũng cảm, không ngại hy sinh tiến công tiêu diệt địch. Hai là, lực lượng vũ trang (Quân khu, Tiểu đoàn, Đại đội, dân quân du kích,…) phải quyết tâm cao trong những thời điểm khó khăn. Ba là, sử dụng nhuần nhuyễn chiến thuật đặc công, kết hợp tấn công của lực lượng vũ trang với nổi dậy của quần chúng để nhanh chóng giành thắng lợi. Hiện nay, tỉnh Phước Thành tuy không còn tồn tại, nhưng chiến thắng Phước Thành vẫn mãi là một trang sử vẻ vang, niềm tự hào của quân và dân Bắc Tân Uyên nói riêng, Bình Dương nói chung, trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
Cuối tháng 02/1962, nhằm hỗ trợ cho việc gom dân lập ấp chiến lược, địch mở nhiều cuộc càn quét vào Chiến khu Đ. Kết hợp với các lực lượng của tỉnh, huyện và Khu đóng trên địa bàn, du kích các xã anh dũng chiến đấu, gây cho địch nhiều thiệt hại. Đêm 26/02/1962, du kích các xã Mỹ Lộc, Tân Tịch, Thường Lang, Đất Cuốc, Tân Hòa cùng Tiểu đoàn 800 tập kích một đại đội bộ binh thuộc Sư đoàn 5 Việt Nam Cộng hòa đang chốt tại cầu Rạch Rớ, giết và làm bị thương gần 40 tên, bắt sống 19 tên, thu 32 súng các loại. Một cánh quân khác của địch đang càn vào hướng Mỹ Lộc phải bỏ dở, quay lại cứu nguy cho cụm giặc ở Rạch Rớ.
2.3. Đấu tranh phá “Ấp chiến lược”, góp phần đánh bại chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” (1963-1964)
Đầu năm 1963, cách mạng miền Nam có bước phát triển mới. Sau chiến thắng Ấp Bắc của quân và dân tỉnh Mỹ Tho (tháng 01/1963), Trung ương Cục phát động toàn miền phong trào “Thi đua Ấp Bắc, giết giặc lập công”.
Từ đầu tháng 3/1963, địch tổ chức càn quét để tiếp tục gom dân vào các ấp chiến lược. Chúng thẳng tay đốt phá nhà cửa những gia đình không chịu vào ấp chiến lược. Hàng trăm gia đình ở xóm Ông Thủ, suối Nước Trong, rẫy Gạch đã bị xúc đi trong đợt này. Cùng với việc gom dân vào các ấp chiến lược, địch đẩy mạnh chiến tranh tâm lý, tổ chức chiếu phim, triển lãm và xây dựng hàng loạt nhà thông tin để tuyên truyền xuyên tạc, nói xấu cách mạng. Hàng ngày, chúng tổ chức cho bọn đầu hàng phản bội lên máy truyền thanh kêu gọi nhân dân đừng tiếp tế, đừng cho con đi cách mạng và bịa đặt nói xấu bộ đội… Quyết không để tình trạng này kéo dài, dưới sự chỉ đạo của các chi bộ cơ sở, chỉ trong một tháng rưỡi, từ đầu tháng 3 đến ngày 16/4/1963, các nhà thông tin của địch ở Phước Hòa, Lạc An lần lượt bị ta đánh sập.
Hưởng ứng lời kêu gọi của Trung ương Cục và Khu ủy miền Đông, đầu tháng 6/1963, Tỉnh ủy Phước Thành chủ trương phá ấp chiến lược, lấy Tân Bình làm thí điểm, vì ở đây ta có chi bộ mật, cơ sở nội tuyến và quần chúng đã được chuẩn bị tốt. Lực lượng C301 và C303 kết hợp với du kích xã Tân Bình bí mật vào bên trong ấp chiến lược ém quân sẵn trong nhà dân từ đêm trước. Sáng sớm hôm sau, như thường lệ, một trung đội dân vệ lính Nùng thuộc Sư 5 Việt Nam Cộng hòa từ trên bót đi hai mũi xuống khu dân cư trong ấp. Khi cả trung đội địch lọt vào đội hình phục kích của ta, bộ đội nổ súng diệt gọn trung đội, thu toàn bộ vũ khí, rút ra an toàn. Phối hợp hành động, chi bộ mật lãnh đạo phát động nhân dân nổi dậy phá banh ấp chiến lược Tân Bình, phá lỏng thế kìm kẹp của địch.
Giữa năm 1963, trước yêu cầu của cách mạng và để chuẩn bị cơ sở vật chất cho kháng chiến, hàng loạt “cửa khẩu” được mở ra ở xung quanh vùng Chiến khu Đ. Hàng trăm chiếc xe bò của người dân Tân Bình, Bình Mỹ, Vĩnh Tân,… hàng đêm chở gạo vào căn cứ. Ngoài ra, ta còn móc nối được cả đoàn xe be, xe vận tải, trong đó, có một số chủ xe là vợ, con tướng tá quân đội Việt Nam Cộng hòa chở lương thực, thực phẩm, hàng y dược bán cho các “cửa khẩu” của ta.
Nắm được tình hình hoạt động của các “cửa khẩu”, địch đã khám xét dọc đường, xét đột xuất rất gắt gao các loại xe đi về hướng Tân Bình - Bình Mỹ… Mặc dù địch ra sức hăm dọa, cấm đoán nhưng những lon gạo của đồng bào vẫn đêm đêm được chuyển ra cho cách mạng. Trên đường vận chuyển, hàng chục xe bò đã bị trúng pháo, vướng trái của địch. Có biết bao tấm gương dũng cảm, quên mình trong công cuộc vận chuyển này như ông Bảy Néo ở Tân Bình, ông Tám Sô ở Bình Mỹ,…
Đến cuối năm 1963, kế hoạch bình định gom dân, lập ấp chiến lược của Mỹ - Diệm bị quân và dân miền Nam đánh phá quyết liệt. Tại Bắc Tân Uyên, nhiều ấp chiến lược Thái Hòa, Bình Mỹ, Vĩnh Tân, Tân Bình bị du kích vây chặt. Kết hợp với lực lượng bên ngoài bao vây, nhân dân trong các ấp chiến lược liên tục đấu tranh với địch, không đi hội họp, không đi cắm chông,…
Trước khí thế cách mạng ở miền Nam ngày càng dâng cao, mâu thuẫn giữa đế quốc Mỹ với chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm ngày càng sâu sắc. Ngày 11/11/1963, Diệm bị lật đổ, Mỹ đưa Dương Văn Minh lên thay, mâu thuẫn nội bộ địch thêm gay gắt, tinh thần binh lính càng thêm sa sút.
Thực hiện sự chỉ đạo của Trung ương Cục, nắm thời cơ lúc chính quyền địch ở địa phương đang hoang mang, Khu ủy, Bộ Tư lệnh Quân khu 7 chủ trương đẩy mạnh tiến công địch, phá ấp chiến lược tập trung ở khu vực tỉnh Phước Thành và vùng ven Chiến khu. Tháng 4/1964, bộ đội địa phương tỉnh Phước Thành tiến công diệt hai đồn Tân Bình và Nhà Đỏ, hỗ trợ nhân dân nổi dậy phá tan ấp chiến lược Nhà Đỏ với hơn 3.000 m rào kẽm gai. Nhân dân xã Thái Hòa, Thạnh Hội, Phước Hòa cũng đã kiên trì đấu tranh, nổi dậy phá tan các ấp chiến lược của địch dọc sông Đồng Nai, trở về quê cũ.
Như vậy, gần giữa tháng 5/1964, toàn bộ ấp chiến lược ở phía tây Chiến khu Đ từ An Long, An Linh, Phước Sang, Bố Mua qua Phước Hòa, Tân Bình, Bình Mỹ đến Bà Đã hoàn toàn bị phá banh. Hành lang đi Bến Cát và Hớn Quản đã được khai thông. Ta liên tiếp uy hiếp địch, nhiều ấp chiến lược bị san bằng, đại bộ phận nhân dân đã ra khỏi khu vực địch khống chế, kìm kẹp.
Tháng 5/1964, Khu ủy miền Đông chủ trương mở đợt hoạt động hè đánh vào âm mưu càn quét và lập lại các ấp chiến lược của địch, phá thế bao vây, mở rộng hành lang đứng chân của ta ra vùng quanh căn cứ. Thực hiện kế hoạch của Bộ Chỉ huy Quân khu, đêm 13/5/1964, ta tấn công đồn bàu Cá Trê. Đồn bàu Cá Trê là một đồn nằm trong hệ thống phòng thủ từ Tân Bình, Bình Cơ, bàu Cá Trê, Sình, Bà Đã. Đồn bàu Cá Trê nằm trong ấp chiến lược, có 90 gia đình và khoảng 500 người, đa số là đồng bào di cư, có một số gia đình ở thành phố bị hỏa hoạn, bị địch đưa về đây. Tại đồn, địch thường xuyên kết hợp với các bót Bình Cơ, Bà Đã quấy phá, khống chế mọi hoạt động của ta. Lực lượng chúng gồm 2 trung đội thuộc C324 - D37 “Cọp đen” và 35 dân vệ, thanh niên chiến đấu.
Lực lượng của ta tham gia đánh đồn bàu Cá Trê gồm: Đại đội 303 tỉnh Phước Thành, Tiểu đoàn Phú Lợi tỉnh Thủ Dầu Một, Trung đoàn 2 Sư đoàn 9. Trong trận đánh này, ta được tăng cường 3 khẩu 12 ly 7. 21 giờ 20 phút ngày 13/5/1964, ta bắt đầu nổ súng tấn công. Sau 30 phút chiến đấu, ta diệt 14 tên, bắt sống 3 tên, thu 64 súng các loại. Số lính địch thoát chết chạy tán loạn. Ta làm chủ tình hình suốt đêm đó.
5 giờ sáng ngày 14/5, địch cho ba đại đội 327, 329 và 313 thuộc tiểu đoàn biệt động quân đang đóng ở Bình Mỹ, chia làm bốn mũi tiến công để cứu viện đồng bọn ở bàu Cá Trê. Các lực lượng của ta sau khi tiêu diệt địch ở bàu Cá Trê đã triển khai đội hình phục kích đánh viện. Đúng 7 giờ 45 phút, các cánh quân cứu viện, được pháo binh bắn dọn đường đã lọt vào trận địa phục kích của ta. Chờ cho địch đến gần khoảng 20m, trung đội đột phá của Đại đội 3 xung phong và bắn xối xả vào mũi đi đầu của địch. Tiếng súng của Đại đội 3 là hiệu lệnh tấn công cho toàn trận địa. Cuộc chiến đấu ở một số hướng trở nên ác liệt. Đại đội 4 buộc phải rút lui vì bắn hết đạn. Nhiều nơi ta và địch vật lộn, đánh giáp lá cà. Cả bốn mũi cứu viện của địch đã bị ta đánh tan, 130 tên trong đó có 4 cố vấn Mỹ bị diệt tại chỗ, 64 tên khác bị thương, 8 tên bị bắt sống, ta thu 78 súng các loại. Số địch còn lại tháo chạy vào rừng, hai tên đại đội trưởng bị giết ngay tại trận. Riêng tên tiểu đoàn trưởng đến giờ phút nguy kịch đã cởi bỏ áo mũ, quăng lon, chạy mình trần theo đám tàn quân nên may mắn thoát chết.
Trong lúc đó, địch ở Chi khu Tân Uyên và Bình Mỹ liên tục điện thúc ép bọn ở Sình, Bà Đã tiếp tục cứu viện. Tại Bà Đã, một trung đội địch vừa kéo ra khỏi bót bị ta chặn đánh, chúng hốt hoảng quăng súng chạy về bót cố thủ. Bọn ở bót Sình cũng kéo ra một trung đội, bị ta diệt 3 tên, số còn lại cũng rút lui về bót.
Chiều hôm đó, trực thăng địch đáp xuống Bà Đã tiếp viện, bị ta bắn rơi 2 chiếc, 5 chiếc còn lại không dám hạ xuống Bà Đả. Đêm đó, du kích Bình Mỹ lại bắn rơi 1 khu trục sát bót Bình Mỹ. Mấy ngày sau, ta gửi thư cho địch ở Bình Mỹ và Tân Uyên cho phép chúng vào lấy xác. Khi xe chở xác chết ra đường 16, hàng trăm vợ, con lính ở các bót Nhà Đỏ, Bình Cơ, Bình Mỹ ra cản đường, nhảy lên xe lấy xác chồng, con, khóc lóc, la ó.
Chiến thắng bàu Cá Trê chẳng những đã buộc các bót Sình, Bà Đã, Bình Cơ phải rút chạy, mà còn giải phóng trên 9.000 dân. Chiến thắng này còn tạo ra cách đánh mới cho các địa phương. Đó là chiến thuật “công đồn, diệt viện”. Sau chiến thắng trận bàu Cá Trê, ta tiếp tục tấn công đồn Cây Gáo và chi khu Hiếu Liêm để khai thông hành lang với các tỉnh Biên Hòa, Bà Rịa, Long Khánh. Sau khi tiêu diệt đồn Cây Gáo, ta quyết định tấn công chi khu quân sự Hiếu Liêm lần thứ hai nằm ở vàm Sông Bé. Đây là một cứ điểm nằm trong mắt xích hệ thống Hiếu Liêm - Cây Gáo - Đại An - Lạc An, hình thành thế liên hoàn ngăn chặn, chia cắt ta ở giữa Chiến khu Đ. Chi khu do một đại đội bảo an đóng giữ, có hào giao thông, lô cốt ngầm khá kiên cố, bên ngoài có hàng chục chốt dân vệ.
Đêm 12/9/1964, lực lượng vũ trang tỉnh Phước Thành phối hợp lực lượng vũ trang Quân khu tiến công địch tại chi khu Hiếu Liêm. Theo kế hoạch hợp đồng, một số cơ sở cách mạng trong chi khu đã đốt kho súng, gõ mõ, gõ kẻng, vận động quần chúng nổi dậy truy bắt bọn lính bảo an, dân vệ lẩn trốn. Chi khu quân sự Hiếu Liêm bị đập tan, nhân dân các ấp chiến lược xung quanh nổi dậy phá ách kìm kẹp.
Đợt hoạt động hè thu năm 1964 trên địa bàn Chiến khu Đ của quân và dân tỉnh Phước Thành phối hợp với lực lượng Quân khu đã giành được thắng lợi lớn. Hệ thống ấp chiến lược, dinh điền An Linh, Phước Sang, Tân Bình, Bình Mỹ, Bà Đã, tới ven sông Đồng Nai bị phá một mảng lớn, tạo được bàn đạp uy hiếp sân bay Biên Hòa và mở lại các “cửa khẩu” Bình Mỹ, Tân Bình để huy động lương thực, bảo đảm cho bộ đội chủ lực Miền thực hiện những chiến dịch lớn thời kỳ cuối “Chiến tranh đặc biệt” trên các chiến trường Đông Nam Bộ.
Đối với tỉnh Phước Thành, qua những đợt phá ấp chiến lược, các cơ sở đảng, bộ máy lãnh đạo, chỉ đạo, chỉ huy, các tổ chức đoàn thể được xây dựng, củng cố phát triển. Số lượng đảng viên của nhiều chi bộ xã từ 4-5 đảng viên (cuối năm 1960) đã phát triển lên 12-15 đồng chí (cuối năm 1964). Nguồn cán bộ từ cơ sở và hàng trăm cán bộ được bồi dưỡng, đào tạo từ Trường Đảng của tỉnh đã đáp ứng yêu cầu cách mạng đang ngày càng phát triển. Phong trào du kích chiến tranh phát triển mạnh, quần chúng trong vùng căn cứ tích cực tăng gia sản xuất, đi dân công phục vụ bộ đội tác chiến, vận chuyển lương thực từ các “cửa khẩu” về căn cứ.
Đến cuối năm 1964, trên địa bàn tỉnh Thủ Dầu Một và Phước Thành, ta đã bao vây, bức rút hàng loạt đồn bót dọc đường 13 từ Thới Hòa xuống ngã tư Sở Sao, làm chủ đường số 2 từ ngã tư Sở Sao đến Nhà Đỏ. Vùng giải phóng của ta nối liền từ Long Nguyên qua Chiến khu Đ, từ Chiến khu Đ xuống Chiến khu Thuận An Hòa.
Mở đầu mùa khô 1964-1965, Quân ủy và Bộ Chỉ huy Miền đã quyết định tổ chức một trận tập kích hỏa lực vào sân bay Biên Hòa. Chấp hành sự chỉ đạo của cấp trên, Tỉnh ủy, Tỉnh đội Phước Thành và Huyện ủy, Huyện đội Tân Uyên, nhân dân vùng Tân Hòa, Mỹ Lộc gấp rút chuẩn bị lương thực và gần 20 ghe, thuyền các loại để sẵn sàng phục vụ bộ đội. Bên cạnh lực lượng phục vụ của các địa phương thuộc Bắc Tân Uyên, lực lượng tham gia chiến đấu và phục vụ chiến đấu gồm: Một đại đội cối 81 (7 khẩu), một đại đội ĐKZ (2 khẩu) của Miền, kết hợp với một đại đội cối 81 (3 khẩu), một trung đội đặc công của Tiểu đoàn 800 của Quân khu Miền Đông (T1), đại đội bộ đội địa phương tỉnh Phước Thành. Bộ Chỉ huy Miền chỉ định các đồng chí Lương Văn Nho (Hai Nhã), Đoàn trưởng Đoàn pháo binh U80 và Nguyễn Văn Bứa (Hai Hồng Lâm) chỉ huy trận đánh.
Chiều 31/10/1964, tại Giáp Lạc, đơn vị hỏa lực đã làm lễ lên đường. Mặc dù đường lầy lội nhưng được nhân dân giúp sức, đơn vị đã bí mật qua sông an toàn. Đúng 23 giờ 30 đêm 31/10/1964, đạn pháo ta bắt đầu bắn vào sân bay. Từng cụm lửa sáng rực một góc trời. Cả thị xã Biên Hòa và các vùng phụ cận bị chấn động vì những tiếng nổ. Chỉ trong vòng 15 phút, 130 quả đạn cối rơi gọn và chính xác xuống các mục tiêu, phá hủy 59 máy bay, trong đó có 21 máy bay B57, loại máy bay tối tân của Mỹ lúc bấy giờ mới đưa vào miền Nam sử dụng, 11 máy bay AD6, 1 máy bay do thám (U2), diệt và làm bị thương 293 tên địch, thiêu hủy và làm nổ tung hoàn toàn hai kho đạn lớn, một kho xăng, một đài quan sát và 18 căn trại lính. Ta rút lui về căn cứ an toàn. Chiến thắng sân bay Biên Hòa làm nức lòng quân, dân cả nước. Chiến công này có phần đóng góp của Đảng bộ, quân và dân tỉnh Phước Thành, trực tiếp là quân, dân Chiến khu Đ. Chiến thắng này đã cổ vũ mạnh mẽ phong trào cách mạng ở miền Đông và cả Miền nói chung.
Phối hợp với quân, dân toàn Miền, cuối năm 1964, Đảng bộ, quân và dân hai tỉnh Thủ Dầu Một, Phước Thành, tích cực xây dựng lực lượng, xây dựng làng xã chiến đấu, căn cứ chiến đấu, xây dựng bảo vệ vùng giải phóng; tiếp tục đẩy mạnh hoạt động tiến công địch cả nông thôn và thị xã, thị trấn; phá lỏng, phá rã bộ máy kìm kẹp của địch trong những ấp chiến lược còn lại; thực hiện đánh phá hệ thống giao thông, kho tàng, chủ động chống càn, tiêu hao, tiêu diệt sinh lực địch.
Cùng với quân, dân toàn tỉnh cũng như toàn miền Nam, từ sau thắng lợi của phong trào Đồng khởi, chi bộ, quân và dân các xã thuộc Bắc Tân Uyên đã vượt qua những thử thách, đương đầu với chương trình “bình định” gom dân, lập ấp chiến lược của Mỹ - chính quyền Việt Nam Cộng hòa. Đây là giai đoạn đấu tranh gay go, gian khổ, quyết liệt và dai dẳng. Dưới sự lãnh đạo của Khu ủy, Bộ Chỉ huy Quân khu miền Đông, phong trào cách mạng của tỉnh Phước Thành nói chung, Bắc Tân Uyên nói riêng, không ngừng phát triển, từng bước tiến lên, giữ vững vai trò là một địa bàn vùng Chiến khu - nơi đứng chân các cơ quan của các tỉnh miền Đông và của Miền; là nơi hội tụ và xuất phát của các đơn vị chủ lực tiến đánh các mục tiêu của địch ở các tỉnh lân cận và ngay tại sào huyệt của chúng ở Sài Gòn. Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ địa phương, quân và dân Chiến khu Đ đã góp phần xứng đáng cùng quân và dân toàn miền Nam đánh bại chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”, sẵn sàng bước vào cuộc chiến đấu mới không kém phần quyết liệt.
3.1. Liên tục tiến công, góp phần bẻ gãy các cuộc phản công mùa khô 1965-1966 của địch
Chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” bị thất bại, chính quyền Giônxơn từng bước chuyển dần sang chiến lược “Chiến tranh cục bộ” với quy mô khốc liệt và tàn bạo hơn. Thực hiện cuộc “Chiến tranh cục bộ”, Mỹ đưa một lực lượng lớn quân đội viễn chinh Mỹ và chư hầu vào trực tiếp xâm lược miền Nam Việt Nam; thực hiện chiến lược “tìm diệt và bình định” để bẻ gãy xương sống của Việt Cộng. Mục tiêu quan trọng nhất của Mỹ trong “Chiến tranh cục bộ” là tìm diệt cho được bộ đội chủ lực và gom dân lập ấp chiến lược, thực hiện “bình định” nông thôn nhằm giành lại thế chủ động trên chiến trường, tiến tới “đánh bại cộng sản” ở Nam Việt Nam.
Từ đầu năm 1965, Hội nghị Trung ương Cục (tháng 01/1965) đã đề ra nhiệm vụ của quân và dân miền Nam, nếu Mỹ nhảy vào ta sẽ đánh Mỹ dù vũ khí của Mỹ có dồi dào hơn, hiện đại hơn. Một khi chúng ta đã dám đánh thì sẽ tìm ra cách đánh và đánh thắng Mỹ. Hội nghị cũng xác định, dù tình hình phát triển theo hướng nào, quân và dân toàn Miền cũng phải chủ động chuẩn bị ba vấn đề lớn: Tân binh, dân công và tài chính nhằm đủ sức đánh thắng Mỹ.
Ngay sau khi có Nghị quyết của Trung ương Cục (tháng 01/1965), Tỉnh ủy Phước Thành đã tổ chức quán triệt Nghị quyết từ tỉnh xuống các chi bộ. Nhiệm vụ cấp bách về xây dựng đảng, xây dựng lực lượng, xây dựng thế trận được các cấp ủy từng đảng bộ, chi bộ cơ quan, đơn vị tỉnh, huyện, xã, ấp gấp rút triển khai thực hiện. Cán bộ Mặt trận, các đoàn thể quần chúng từ tỉnh đến huyện, xã động viên mọi tầng lớp nhân dân từ vùng giải phóng đến vùng địch kiểm soát đóng góp sức người, sức của, ủng hộ cách mạng. Ở hầu hết các xã, nơi nào cũng có đội du kích từ 1 đến 3 tiểu đội; một số xã ở Châu Thành, Phú Giáo, Tân Uyên, du kích chiến đấu ấp (1-2 tiểu đội) cũng chiến đấu giỏi như du kích xã. Thế trận chiến tranh nhân dân trên địa bàn của tỉnh được chuẩn bị tích cực. Ban Kinh tài, Hội đồng Cung cấp tỉnh, huyện, xã (do một đồng chí cấp ủy phụ trách) bố trí lực lượng thu mua lương thực, thực phẩm, thuốc men ở các “cửa khẩu” về căn cứ. Nguồn hàng thu mua chủ yếu từ trong dân ở các huyện Bến Cát, Châu Thành, Tân Uyên, Phú Giáo và một số mối hàng vận chuyển từ trong thị xã, từ Sài Gòn chuyển ra. Có ngày những mối hàng lớn trong thành chở ra “cửa khẩu” Chánh Lưu, Nhà Đỏ, hàng chục tấn gạo, năm sáu ngàn lít muối bán cho cách mạng.
Thực hiện chủ trương của Tỉnh ủy, các ban, ngành của tỉnh và cấp ủy các huyện, xã của tỉnh Phước Thành khẩn trương bố trí lại nơi ăn, ở cho cán bộ, đảng viên, du kích các xã; phân công lực lượng bám dân, dựa vào dân để làm hầm bí mật trong ấp chiến lược sát nách địch.
Cuối tháng 5/1965, Lữ đoàn dù 173 lên thay Lữ đoàn đặc nhiệm 198, đổ xuống Bàu Tràm, Nhà Đỏ, Cổng Xanh, Gò Lũy, Sở 49,… hình thành gọng kìm càn quét Chiến khu Đ và xúc tiến gom dân ba xã Tân Bình, Bình Mỹ, Vĩnh Tân.
Ngày 06/7/1965, quân Mỹ đổ xuống cánh đồng Giáp Lạc (xã Mỹ Lộc) hơn 4.500 quân, càn quét vùng Chiến khu Đ. Hai ngày đầu ta tổ chức cho các tổ du kích bắn tỉa làm tiêu hao sinh lực địch. Ngày thứ 3 khi địch càn vô Trường trinh sát đặc công của tỉnh Phước Thành, lực lượng Trường trinh sát đặc công và Đại đội 2 của tỉnh Phước Thành do đồng chí Huỳnh Văn Hiệp (Bảy Hiệp) chỉ huy chống càn. Trận này, ta diệt hơn 100 tên Mỹ, thu được một số súng AR15, hy sinh 1 đồng chí trung đoàn phó (5 Thi).
Tháng 7/1965, Bộ Tư lệnh Miền quyết định mở trận tập kích vào sân bay Biên Hòa lần thứ hai. 0 giờ ngày 24/8/1965, từ hai trận địa pháo, 8 khẩu pháo, cối của Tiểu đoàn 34 pháo binh Miền nã dồn dập 300 quả đạn vào các mục tiêu trong sân bay Biên Hòa. Cả sân bay rực lửa. Máy bay địch lên phản kích bị thu hút cả vào trận địa giả ở Tân Tịch. Được sự giúp đỡ của nhân dân địa phương, Tiểu đoàn 34 nhanh chóng vượt sông về Chiến khu Đ an toàn. Kết quả, ta phá hủy 68 máy bay các loại, 8 dàn hỏa tiễn, 22 bồn xăng dầu, 30 xe ô tô, diệt và làm bị thương 300 tên giặc lái và kỹ thuật Mỹ.
Thời gian này, việc chỉ đạo du kích chiến tranh trong tỉnh Phước Thành rất chặt chẽ, các xã ven sông và dọc lộ 15, 16 đều đã củng cố lại lực lượng du kích, khắp nơi đã củng cố xong hầm hào, ụ chiến đấu, sẵn sàng đánh trả địch càn quét. Lực lượng du kích xã Vĩnh Tân do đồng chí Mai Văn Ngờ (Ba Tích) chỉ huy, đã đắp hàng chục ụ chiến đấu và nhiều hầm bí mật trong khu rừng Vĩnh Lợi. Địch càn quét hàng chục lần nhưng không vào được căn cứ.
Ngày 07/10/1965, khi một tiểu đoàn của Lữ dù 173 Mỹ càn vô căn cứ Tỉnh đội Phước Thành (ở Giồng Xoài) bị Tiểu đoàn 3, Trung đoàn 1, Sư đoàn 9 nổ súng tấn công mãnh liệt. Quân Mỹ bị động đối phó, gọi máy bay, pháo binh từ Biên Hòa, Tân Uyên bắn yểm trợ để rút lui. Vượt hỏa lực mạnh của địch, bộ đội ta xung phong, dùng lựu đạn, lưỡi lê đánh quyết liệt vào đội hình của chúng. Trước cách đánh táo bạo, xáp lá cà của quân ta, phi pháo của địch trở nên mất hiệu quả. Sau 5 giờ chiến đấu, ta diệt hơn 100 tên Mỹ, bắn rơi 4 máy bay, thu nhiều vũ khí và đồ dùng quân sự. Trong trận này, lần đầu tiên một tiểu đoàn quân chủ lực miền Đông đã đánh và diệt một tiểu đoàn quân viễn chinh Mỹ.
Trên chiến trường miền Nam, từ cuối năm 1965, Mỹ đã triển khai thực hiện kế hoạch phản công mùa khô lần thứ nhất (1965-1966), với mục tiêu đánh bại bộ đội chủ lực, phá hoại các căn cứ kháng chiến, thực hiện “bình định” có trọng điểm nhằm thu hẹp vùng giải phóng của ta, củng cố chính quyền và quân đội tay sai.
Ở miền Đông Nam Bộ, từ tháng 1 đến tháng 5/1966, quân đội Mỹ - Việt Nam Cộng hòa mở 13 cuộc hành quân lớn đánh phá Chiến khu Đ, Chiến khu Dương Minh Châu, Hố Bò, Bời Lời, Bến Cát, hòng tiêu diệt cơ quan đầu não và một bộ phận quân chủ lực ta, ngăn chặn ta hoạt động uy hiếp Sài Gòn, hỗ trợ cho quân đội Sài Gòn bình định, tiến tới giành thế chủ động trên chiến trường.
Tại chiến trường Thủ Dầu Một và Phước Thành, Mỹ sử dụng lực lượng nòng cốt là Sư đoàn 1 bộ binh kết hợp lực lượng Sư đoàn 18 chủ lực Việt Nam Cộng hòa và một số tiểu đoàn bảo an địa phương mở nhiều cuộc hành quân trên diện rộng ở Tân Uyên, Phước Vĩnh, Chiến khu Đ, Bến Cát, Châu Thành, hỗ trợ cho chương trình bình định. Sau đó, chúng tập trung lực lượng với quy mô cấp sư đoàn đánh sâu vào các cụm căn cứ của ta nhằm phát hiện lực lượng, phá sự chuẩn bị tiến công của ta, tìm diệt chủ lực (Sư đoàn 9 bộ binh) ở Chiến khu Đ. Địch sử dụng nhiều phương tiện chiến tranh hiện đại như máy bay, pháo binh, xe tăng, rải thảm chất độc hóa học triệt phá rừng căn cứ, nhằm gây ra cảnh đói, nghèo cho đồng bào vùng căn cứ, vùng giải phóng để chúng thực hiện âm mưu gom lại dân vào các ấp chiến lược mà chúng đổi tên gọi là “ấp tân sinh”.
Đầu tháng 02/1966, Mỹ mở cuộc quét quy mô lớn vào Chiến khu Đ mang tên “Hòn đá lăn” (Rolling Stone). Để uy hiếp tinh thần quân ta và tạo thuận lợi cho lính viễn chinh Mỹ tham gia cuộc hành quân, địch sử dụng lực lượng không quân, pháo binh, kể cả dùng máy bay B52 ném bom rải thảm hàng ngàn tấn bom đạn xuống Hiếu Liêm, Sình, Bà Đã, Mỹ Lộc. Ngày 05/02/1966, địch sử dụng Lữ đoàn 1, Sư đoàn 1 bộ binh Mỹ, Lữ đoàn dù 173, Tiểu đoàn Úc, 2 tiểu đoàn thuộc Sư đoàn 18 bộ binh Việt Nam Cộng hòa và một chi đoàn thiết xa vận, hình thành hai mũi tiến công đánh thẳng vào căn cứ của Quân khu, tìm chủ lực, phá kho tàng, trạm vận chuyển của ta trong căn cứ.
Bộ đội tỉnh Phước Thành cùng du kích các xã thuộc Bắc Tân Uyên phối hợp với lực lượng Sư đoàn 9 tổ chức nhiều cánh quân nhỏ, gọn liên tục tiến công, kết hợp đánh mìn, gây cho địch nhiều thiệt hại. Trong đó, du kích xã Tân Hòa, gài trái diệt 7 tên Mỹ; các tổ du kích xã Tân Bình, Bình Mỹ, Phước Hòa, Vĩnh Tân,… đánh bọn tay sai ở vòng ngoài, bắn cháy 3 xe GMC trên đường 15, phục kích đánh xe địch tại lô 12 xã Phước Hòa; gài mìn diệt địch ở cầu Thợ Ụt, Sình... Riêng 3 du kích Phước Hòa do đồng chí Bảy Bù Lu trực tiếp chỉ huy phục kích địch tại lộ 12, khi chiếc xe GMC chở đầy lính đi qua, đồng chí Nhịn ném lựu đạn trúng thùng xe, diệt tại chỗ 30 tên.
Ngày 14/02/1966, quân Mỹ, quân Việt Nam Cộng hòa và 1 tiểu đoàn chư hầu (Úc), từ Chiến khu Đ rút ra Bông Trang, Nhà Đỏ chuẩn bị mở cuộc hành quân “dao lửa”, nhằm hỗ trợ cho quân Việt Nam Cộng hòa củng cố trục tam giác Tân Uyên - Phước Vĩnh - Lai Khê hòng chia cắt Chiến khu Đ của ta và hỗ trợ cho kế hoạch “bình định” xã Tân Bình, Bình Mỹ, Bình Cơ. Phối hợp với Sư đoàn 9, Huyện ủy Tân Uyên, Bến Cát, Phú Giáo tập trung chỉ đạo du kích các xã ven trục tỉnh lộ 1A, đường 16, chiến đấu ngăn chặn tiêu hao sinh lực địch. Du kích các xã Phước Hòa, Bình Mỹ, Tân Bình tổ chức thành liên đội, bố trí trận địa mìn, phục kích, chặn đánh quyết liệt lực lượng bộ binh cơ giới, tập kích trận địa pháo địch tại khu vực ngã ba Cổng Xanh, Bố Lá,… tạo điều kiện cho lực lượng Sư đoàn 9 tiến hành cuộc tập kích đánh thiệt hại nặng 2 tiểu đoàn quân Mỹ đóng dã ngoại tại ấp Bông Trang và Nhà Đỏ trong đêm 24/02//1966, tiêu hao nặng tiểu đoàn Úc, bắn cháy 48 xe bọc thép M113, 24 xe tăng,... sau đó đánh thiệt hại nặng 1 tiểu đoàn Mỹ tại dốc Bà Nghĩa trên đường 16.
Mặc dù có đầy đủ các ưu thế (không quân, hỏa lực, cơ giới, số lượng bộ binh) nhưng cuộc ra quân phản công mùa khô lần thứ nhất (1965-1966) của Mỹ đã bị quân và dân miền Nam đập tan. Trên chiến trường của tỉnh Thủ Dầu Một và Phước Thành, cả quân đội Mỹ và Việt Nam Cộng hòa bị đánh đau ở Chiến khu Đ, Phú Lợi, Dầu Tiếng, Bông Trang, Nhà Đỏ,... Cả hai gọng kìm “tìm diệt” và “bình định” của chúng bị bẻ gãy. Quân và dân trong tỉnh không hề sợ Mỹ, chủ động tiến công tiêu diệt địch. Thế trận tiến công địch của ta ở cả ba vùng, ba mũi được giữ vững và phát triển. Lực lượng vũ trang trong tỉnh, huyện, du kích các xã đã đánh thắng quân Mỹ ngay trong các trận đầu bằng thế trận du kích chiến tranh rộng khắp. Hệ thống căn cứ của tỉnh, huyện tuy bị đánh phá ác liệt nhưng đã kịp củng cố, xây dựng.
Đầu tháng 3/1966, quân Mỹ tiếp tục mở trận càn lấy tên “Thành phố bạc” (Silver city) nhằm vào vùng Bà Đã, Bến Chang Chang phía bắc Chiến khu Đ. Phối hợp với quân Mỹ, Trung đoàn 48, Sư đoàn 10 Việt Nam Cộng hòa mở cuộc càn quét vào các xã thuộc Bắc Tân Uyên. Tuy nhiên, đi đến đâu chúng cũng gặp chông, mìn và trái do du kích các xã gài. Chỉ sau một tuần, du kích Vĩnh Tân, Tân Bình và Bình Mỹ đã diệt hơn 60 tên địch, thu 21 súng các loại và 17 trái tạc đạn. Cay cú vì không tìm diệt được chủ lực ta lại bị du kích đánh tiêu hao, kẻ thù quay sang bắn giết trâu, bò, đốt nhà cửa của nhân dân. Trong ngày 10/3/1966, ở Bình Mỹ, Vĩnh Tân, Đất Cuốc, chúng đã bắn giết hơn 100 trâu, bò và đốt hơn 60 nóc nhà.
Ngày 13/3/1966, lực lượng bảo vệ Quân khu, các cơ quan và quân y đã đẩy lùi 9 đợt xung phong của địch, đồng thời tổ chức lực lượng tấn công sườn bên phải của chúng, diệt gần 60 tên Mỹ, buộc địch phải rút lui.
Liên tục trong các ngày 14 và 15/3/1966, các lực lượng của ta dũng cảm chống càn bảo vệ căn cứ, kho tàng diệt thêm 40 tên Mỹ. Tuy có bị tổn thất, nhưng được phi pháo yểm trợ và bị cấp trên thúc ép, quân Mỹ chỉ đi càn dọc lộ thống nhất, mỗi ngày không quá 2km. Mệt mỏi và hoang mang, 18 giờ 30 ngày 15/3, quân Mỹ cụm lại Bàu Sắn. Bàu Sắn nằm trong khu vực tứ giác Giáng Hương - Mã Đà và Suối Linh - Rẫy Bảy Mẫu. Xung quanh là rừng đã bị B52 hủy diệt nên việc tiếp cận vào ban đêm gặp rất nhiều khó khăn. Mặc dù vậy, đến 6 giờ 15 phút ngày 16/3, lực lượng của Quân khu và Miền đã hình thành 3 mũi bao vây và nổ súng vào cụm quân Mỹ. Quân địch lợi dụng các hố bom và dựa vào phi pháo yểm trợ chống cự quyết liệt, đẩy lùi nhiều đợt xung phong của ta. Đến 16 giờ 35 phút, sau khi đã đánh thiệt hại nặng hai tiểu đoàn kỵ binh Mỹ, lực lượng ta được lệnh rút lui. Trận này ta hy sinh 72 đồng chí, bị thương 242 người, loại khỏi vòng chiến trên 100 tên Mỹ, bắn rơi 5 chiếc trực thăng.
Như vậy, trong đợt phản công lần thứ nhất, hai cuộc càn lớn “Hòn đá lăn” và “Thành phố bạc” vào Chiến khu Đ của địch đã bị bẻ gãy. Không diệt được chủ lực, không phá được hậu cứ của ta, Mỹ dùng máy bay ném bom và rải chất độc xuống địa bàn. Máy bay trinh sát của Mỹ ngày đêm chụp ảnh và bắn pháo sáng xuống các bến sông, trục lộ để ngăn chặn và hạn chế các hoạt động của ta.
Cuối tháng 3/1966, Trung ương Cục họp đánh giá tình hình sau khi đánh bại cuộc phản công lần thứ nhất của địch và đề ra nhiệm vụ của cách mạng, trong đó nhấn mạnh vấn đề xây dựng căn cứ, sản xuất, tiết kiệm và từng bước hoàn chỉnh vùng chiến lược. Thực hiện chủ trương này, các vùng Bông Trang, Bình Mỹ, Bình Cơ, Phước Hòa trở thành những “cửa khẩu” quan trọng để mua lương thực và hàng quân sự cho hậu cần Miền.
Dựa vào thế quân sự, Mỹ đánh phá vòng ngoài, chính quyền tay sai tiến hành nhiều biện pháp nhằm củng cố hệ thống kìm kẹp đã bị lỏng lẻo, tan rã ở nhiều nơi. Chúng đưa bọn ác ôn ở nơi khác đến làm xã trưởng một số xã, tung cảnh sát vừa đào tạo về nắm dân vệ, cảnh sát ở xã, ấp, tăng cường các đoàn bình định, củng cố các ấp chiến lược, kiểm soát gắt gao việc đi lại, làm ăn của nhân dân, nhất là số người chúng nghi ngờ có quan hệ với cách mạng, bao vây phong tỏa, bắt làm sổ xay lúa để quản lý hòng không cho lương thực đưa ra vùng giải phóng. Lúc này, các xã, nhất là các xã có rừng đã củng cố và xây dựng ổ, ụ chiến đấu chống trả địch quyết liệt mỗi khi chúng càn vào căn cứ, đồng thời, tổ chức nhiều trận phục kích địch.
Cuối mùa mưa 1966, thực hiện chủ trương của Trung ương Cục, tỉnh Phước Thành giải thể. Một số cán bộ của Tỉnh ủy, các cơ quan Đảng, quân sự, các ngành được điều về trên, số khác bổ sung cho huyện Phú Giáo và Tân Uyên của tỉnh Thủ Dầu Một. Cùng thời gian này, Mỹ ráo riết chuẩn bị cuộc phản công chiến lược lần thứ hai vào mùa khô 1966-1967 bằng kế hoạch “hai gọng kìm” nhằm đánh bại ta trong năm 1967. Trên chiến trường Nam Bộ, địch ưu tiên tập trung lực lượng đánh vào hệ thống căn cứ ta ở miền Đông Nam Bộ, trọng điểm là Chiến khu Dương Minh Châu nhằm tiêu diệt cơ quan đầu não và một bộ phận chủ lực ta, kết hợp bình định mở rộng vành đai an ninh quanh Sài Gòn. Trên chiến trường của tỉnh, địch bố trí Sư đoàn 1 bộ binh Mỹ dọc quốc lộ 13 (Lai Khê, Phước Vĩnh), sẵn sàng cơ động cho hướng Tây Ninh hoặc Bình Long, Phước Long, yểm trợ cho Sư đoàn 5 bộ binh Việt Nam Cộng hòa bình định các tỉnh Thủ Dầu Một, Bình Long.
Tháng 10/1966, Trung ương Cục, Quân ủy và Bộ Chỉ huy Miền mở Hội nghị tổng kết du kích chiến tranh toàn Miền lần thứ 3. Trong đó, kinh nghiệm đánh Mỹ của du kích xã Tân Bình đã làm phong phú thêm nội dung tổng kết. Hội nghị đã đề ra một số nhiệm vụ về phát triển phong trào du kích với phương châm tiến công ba mũi, đánh mạnh giao thông, đánh sâu vào hậu phương địch, tạo điều kiện cho các lực lượng tập trung tấn công diệt địch mạnh mẽ hơn.
Trong khi ta đang triển khai và củng cố thế chiến đấu tại căn cứ, ngày 31/01/1967, Lữ đoàn 3, Sư đoàn 1 bộ binh Mỹ từ căn cứ quân sự Phước Vĩnh mở cuộc càn quét vào khu vực Bàu Gốc, Đồng Chinh, Trâu Quỳ, Suối Cát, Phước Hòa,... Từ ngày 31/01 đến 3/02/1967, bộ đội địa phương tỉnh Thủ Dầu Một, huyện Tân Uyên, Phú Giáo và du kích các xã liên tục bám sát địch, phục kích bằng mìn, lựu đạn, tập kích bất ngờ vào các cụm chốt của địch, diệt và làm bị thương hơn 400 tên Mỹ.
Từ ngày 22/2 - 15/3/1967, Mỹ mở trận càn Gianxơn Xity (Junction City), huy động một khối lượng lớn phương tiện chiến tranh hiện đại đánh vào căn cứ Trung ương Cục (Tây Ninh). Nắm thời cơ chủ lực địch bị thu hút vào chiến trường Bắc Tây Ninh, Khu ủy chủ trương mở đợt tiến công mạnh vào các căn cứ địch, các chốt địch trong căn cứ, đánh phá các ấp chiến lược, mở rộng vùng làm chủ xung quanh Chiến khu Đ. Từ tháng 3 đến tháng 4/1967, bộ đội địa phương đã đánh bại cuộc càn của Trung đoàn 7, Sư đoàn 5 bộ binh Việt Nam Cộng hòa vào căn cứ. Đồng thời, ta đẩy mạnh hoạt động trên đường 14, 16, bức rút, bức hàng 10 đồn bót địch, phá vỡ 22 ấp chiến lược, giải phóng hơn 100.000 dân. Mặt khác, ta tổ chức bắt tên Nhà và hàng chục tên gián điệp đang hoạt động ở vùng Mỹ Lộc, Thường Lang, Tân Hòa, Tân Tịch. Việc khám phá và phát hiện bọn gián điệp, chỉ điểm nằm vùng làm phá sản nhiều dự định táo bạo, bất ngờ đánh vào căn cứ cách mạng của ta, đồng thời, làm cho bọn còn lại hoảng sợ, trốn chạy đi nơi khác, giữ vững được đoàn kết nội bộ và an toàn trong một thời gian dài.
Thực hiện chỉ thị của Bộ Chính trị, tháng 5/1967, Trung ương Cục quyết định thành lập Đoàn 70 trực thuộc Cục Hậu cần Miền nhằm đón nhận hàng của Trung ương từ nam Tây Nguyên và Campuchia chuyển về phục vụ cho hoạt động tác chiến ở B2 (Nam Bộ và cực Nam Trung Bộ). Đoàn 70 có 4 cánh H7, H8, H9, H10, trong đó hai cánh H8 và H10 đứng chân ở bờ Bắc Sông Bé (Chiến khu Đ) và Nam Đồng Xoài, vừa đón nhận hàng tiếp liệu, vừa triển khai kho tàng trong căn cứ. Đoàn 70 cùng Đoàn hậu cần 81, 84 với nhiều cánh thu mua, vận chuyển, chiến đấu bảo vệ hành lang, căn cứ, tạo thành mạng lưới hậu cần liên hoàn từ Chiến khu Đ xuống các khu vực Bình Dương - Biên Hòa, Bà Rịa bảo đảm cho các lực lượng chủ lực Miền, Quân khu hoạt động. Nhân dân quanh vùng Chiến khu Đ và các xã Tân Bình, Bình Mỹ, Vĩnh Tân ngày đêm cung cấp lương thực cho các “cửa khẩu”. Biệt kích, phi pháo và máy bay địch liên tục uy hiếp nhưng những đoàn xe bò, xe thồ vẫn tấp nập chở đủ mọi mặt hàng phục vụ cho chiến trường.
Ngày 11/5/1967, Trung đoàn pháo ĐKB 274 Miền với trận địa pháo tại Chiến khu Đ (bờ sông Đồng Nai) đã mở trận tập kích hỏa lực lần thứ 3 vào sân bay Biên Hòa. Ta phá hủy 100 máy bay các loại và diệt nhiều sĩ quan kỹ thuật Mỹ, Việt Nam Cộng hòa.
Đầu tháng 7/1967, Trung đội cối 82 của huyện Tân Uyên được thành lập. Trung đội gồm 21 đồng đội nữ do đồng chí Huỳnh Thị Chấu làm Chính trị viên, Mười Diệu làm Trung đội trưởng, Tư Hò làm Trung đội phó. Sau khi thành lập, Trung đội đã tổ chức pháo kích vào Chi khu Tân Uyên, trận đầu lập công xuất sắc, giết và làm bị thương 14 tên, phá hủy một khẩu pháo 105 ly.
Khi bước vào giai đoạn địch thực hiện chiến lược “Chiến tranh cục bộ”, với nỗ lực vượt bậc, Đảng bộ, quân và dân Chiến khu Đ đã dũng cảm, kiên cường chiến đấu, góp phần làm thất bại hai cuộc phản công chiến lược mùa khô 1965-1966 và 1966-1967 của địch.
3.2. Tham gia tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, góp phần đánh bại chiến lược “Chiến tranh cục bộ”
Thực hiện chủ trương của Bộ Chính trị, tháng 10/1967, Trung ương Cục, Quân ủy Miền đã ra Nghị quyết về Tổng công kích - Tổng khởi nghĩa với tên gọi là “Nghị quyết Quang Trung”. Hướng tiến công chủ yếu là thành phố Sài Gòn, mục tiêu của tổng công kích - tổng khởi nghĩa là các cơ quan đầu não, bộ máy chiến tranh của Mỹ và đầu não Trung ương chính quyền Sài Gòn.
Do tính chất quan trọng của Sài Gòn - Gia Định trong Tổng công kích - Tổng khởi nghĩa, ngày 25/10/1967, Trung ương Cục tổ chức khu trọng điểm gồm Sài Gòn - Gia Định và các tỉnh lân cận thành 5 phân khu (1, 2, 3, 4, 5). Theo tổ chức mới, Phân khu 5 hướng Bắc Sài Gòn gồm các huyện Tân Uyên, Phú Giáo, Châu Thành, thị xã Thủ Dầu Một, Lái Thiêu, Dĩ An và Bắc Thủ Đức.
Căn cứ vào tổ chức chiến trường, Trung ương Cục quyết định thành lập Ban Chấp hành các Phân khu ủy thay cho các Tỉnh ủy. Phân khu ủy Phân khu 5 có các đồng chí Hoàng Minh Đạo (Năm Thu), Bí thư Phân khu ủy kiêm Chính ủy lực lượng vũ trang; Nguyễn Văn Trung (Sáu Trung), nguyên Bí thư Tỉnh ủy Thủ Dầu Một, làm Phó Bí thư thường trực.
Thực hiện sự chỉ đạo của Quân ủy, Bộ Chỉ huy Miền, ngay sau khi Phân khu thành lập, các cơ quan của tỉnh Thủ Dầu Một (trở thành các cơ quan của Phân khu 5), chuyển từ Căn cứ Long Nguyên - Bến Cát về Chiến khu Đ. Phân khu ủy chỉ đạo các huyện, các lực lượng khẩn trương tiến hành công tác chuẩn bị cho Tổng tiến công và nổi dậy. Phân khu ủy chỉ đạo trực tiếp Ban Giao bưu phối hợp với các địa phương bố trí lại các trạm giao liên, du kích đi các huyện, tăng cường lực lượng cho các hướng trọng điểm, mở thêm đường dây công khai liên lạc với Khu ủy qua hòm thư. Các đội thanh niên xung phong cùng hàng ngàn dân công và cán bộ, chiến sĩ, nhân viên các cơ quan ở căn cứ đến các đơn vị hậu cần ngày đêm bí mật chuyển hàng từ các nơi về căn cứ và từ các kho hậu cần phía sau xuống các vị trí tập kết. Trên mỗi hướng, hệ thống kho tàng, đường hành lang vận tải ngang dọc đều có cơ sở hậu cần tại chỗ phối hợp. Đến tháng 01/1968, kết hợp hậu cần khu vực với hậu cần nhân dân (thu mua trong dân và nhờ dân cất giấu), trên địa bàn Phân khu 5 ta đã có 1.500 tấn lương thực, 750 tấn vũ khí, đạn dược được bố trí các kho ở Chiến khu Đ và cất giấu rải rác trong dân.
Mặt khác, đến cuối năm 1967, trên địa bàn Phân khu 5 ta đã có vùng giải phóng gồm các xã bắc Châu Thành (Hòa Lợi, Chánh Phú Hòa, Vĩnh Tân) và một vùng rộng lớn Chiến khu Đ với trên 15.000 dân. Thực lực ở cơ sở phần lớn các xã có chi bộ, du kích, đoàn thể quần chúng…
Những tháng cuối năm 1967, công tác chuẩn bị cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy được tiến hành khẩn trương và bí mật. Các đơn vị lực lượng vũ trang Phân khu, các huyện đến du kích các xã khẩn trương kiện toàn tổ chức biên chế, bổ sung quân số, trang bị,...
Trong khi các địa phương trong tỉnh chuẩn bị các mặt cho chiến dịch tổng tiến công, trên địa bàn Bắc Tân Uyên vẫn liên tục diễn ra các trận đánh quyết liệt giữa ta và địch. Từ giữa tháng 11/1967, địch liên tục càn quét vào các vùng căn cứ của ta với ý đồ ngăn chặn các hoạt động trong mùa khô. Chúng phục kích các con đường qua lại trong vùng Chiến khu Đ và lùng sục các kho tàng, bến bãi.
Sáng ngày 23/11/1967, Tiểu đoàn 2, Trung đoàn 48 Việt Nam Cộng hòa được máy bay trực thăng đổ xuống Sình, Bà Đã để càn quét vào Đất Cuốc và từ Đất Cuốc về Tân Uyên. Suốt ngày 24/11, chúng truy lùng theo dấu vết hoạt động của ta, phá được số mì chưa thu hoạch mà không gặp sự kháng cự nào. Chiều 24/11, chúng tổ chức đóng dã ngoại tại cầu Tân Lợi để sáng hôm sau càn quét dọc lộ rồi qua dốc Bàn Tay về Chi khu Tân Uyên.
Nắm chắc tình hình địch đang mệt mỏi và chủ quan, Đại đội 3 và Đại đội 2 của Tiểu đoàn 1 và Trung đoàn Đồng Nai được du kích Đất Cuốc dẫn đường, vừa hành quân vừa chạy đến cầu Tân Lợi. Đến 5 giờ sáng ngày 24/11, quân ta đã hình thành 3 mũi bao vây đội hình địch. Đúng 6 giờ 10 phút ta chỉ còn cách địch 15-20m nhưng chúng vẫn không phát hiện. Quân ta nhất loạt xung phong, dùng B.40, AK và lựu đạn tấn công sở chỉ huy địch. Ngay phút đầu, 2 máy PRC10 liên lạc của địch và tên đại úy tiểu đoàn trưởng đã bị diệt. Ta chia cắt đội hình địch và áp sát để tránh pháo từ Tân Uyên bắn tới. Sau 35 phút chiến đấu, ta diệt và làm bị thương 320 tên, thu 24 súng các loại trong đó có ĐKZ, đại liên và súng cối; 24 tên sống sót chạy về đến dốc Bàn Tay bị lực lượng tải gạo của thị trấn Tân Uyên do đồng chí Sáu Tân, Bảy Tiên phụ trách tiêu diệt.
Tháng 12/1967, thi đua lập thành tích chào mừng ngày ra đời của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam (20//12), đội nữ pháo binh Tân Uyên dùng hỏa lực tập kích bất ngờ quân Mỹ đóng ở ngã ba Sình, gây cho chúng nhiều thiệt hại. Bị đánh bất ngờ và biết được đội pháo binh toàn phụ nữ, quân Mỹ tung một đại đội ra lùng sục, khi bọn này vừa đến vùng Bàu Cháp Nước thì bị lực lượng của huyện chặn đánh ác liệt.
Thấm đau, cả tiểu đoàn bộ binh thuộc Sư đoàn “Anh cả đỏ” có xe thiết giáp tràn ra tấn công, lại bị chặn đánh. Suốt sáu giờ chiến đấu, ta đã diệt và làm bị thương nhiều tên Mỹ, bắn tan xác 5 chiếc thiết giáp, xe tăng M.41, bắn rơi 1 máy bay lên thẳng. Xác lính Mỹ nằm ngổn ngang khắp vùng Bàu Cháp Nước, mãi đến chiều hôm sau quân Mỹ mới dám cho trực thăng đến lấy xác.
Như vậy, chỉ trong ngày 06/12/1967, lực lượng của huyện và xã đã diệt gần một đại đội Mỹ, đánh tiêu hao một tiểu đoàn Mỹ khác, bắn cháy 5 xe thiết giáp và xe tăng M.41, bắn rơi 1 trực thăng, thu nhiều vũ khí và đồ dùng quân sự.
Tính đến đầu tháng 01/1968, công tác chuẩn bị tổng tiến công trên các hướng cơ bản đã hoàn thành, nhưng còn bộc lộ một số nhược điểm do thời gian gấp gáp chưa khắc phục được như công tác huấn luyện cho bộ đội tác chiến trong thành phố, công tác hiệp đồng giữa phía trước với phía sau, giữa chủ lực với Phân khu… Lực lượng nổi dậy cũng chưa được chuẩn bị kỹ. Trong khi đó, địch mặc dù bị động căng kéo lực lượng đối phó với ta ở Khe Sanh, Lộc Ninh, Đắc Tô,... nhưng vẫn tăng cường lực lượng bảo vệ Sài Gòn, gia tăng các biện pháp phòng thủ vùng trung tuyến và nội đô. Tương quan so sánh lực lượng giữa ta và địch trên địa bàn Phân khu 5 địch chiếm ưu thế hoàn toàn về binh lực, hỏa lực và phương tiện chiến tranh (cả quân Mỹ và Việt Nam Cộng hòa có 30 tiểu đoàn) với một hệ thống bố phòng có thể chi viện cho nhau cả về hỏa lực, binh lực khi cần.
Đúng 0 giờ ngày 31/01//1968, tức đêm mùng một tết Mậu Thân, cùng với toàn Miền, quân và dân Phân khu 5 đồng loạt nổ súng tấn công và nổi dậy khắp trong địa bàn Phân khu. Du kích các xã Tân Hòa, Thường Lang, Tân Tịch, phối hợp với 1 tiểu đoàn thuộc Sư đoàn 5 chủ lực Miền, tấn công hậu cứ Trung đoàn 48, Sư đoàn 18 bộ binh Việt Nam Cộng hòa tại dốc Bàn Tay, đánh một số chốt dã ngoại địch khu vực đồi Hoa Sim, dốc Bà Nghĩa, hỗ trợ đồng bào nổi dậy diệt ác. Tại xã Mỹ Lộc, Thường Lang, Bạch Đằng, Thạnh Phước, du kích cùng nhân dân dùng ghe chở lực lượng Trung đoàn 5, Sư đoàn 5 chủ lực Miền, vượt sông Đồng Nai tấn công vào sân bay Biên Hòa. Khi đơn vị trở ra, vượt sông về căn cứ, bị phi pháo địch đánh phá chặn đường rút, bộ đội thương vong nhiều, cấp ủy chi bộ các xã vận động đồng bào đóng góp lương thực, thực phẩm nuôi dưỡng chăm sóc thương binh, tổ chức lực lượng dân công vận chuyển hàng trăm ca thương binh nặng về căn cứ.
Cuộc tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 trong đợt 1, Đảng bộ, quân dân toàn Phân khu đã nghiêm chỉnh chấp hành mệnh lệnh chiến đấu của cấp trên, vượt qua nhiều khó khăn gian khổ, ác liệt, anh dũng chiến đấu, đánh thiệt hại nhiều sinh lực và phương tiện chiến tranh của địch. Một số nơi, đã kết hợp được phong trào nổi dậy của quần chúng, đấu tranh chính trị và binh vận, vận động được một số binh sĩ đào rã ngũ.
Bước vào đợt 2 chiến dịch (tháng 5/1968), tại Tân Uyên, thực hiện nhiệm vụ Khu ủy, Bộ Chỉ huy Phân khu 5 giao, bộ đội địa phương Tân Uyên phối hợp với Trung đoàn 174, Sư đoàn 7 bộ binh chủ lực Miền mở đợt hoạt động trên đường 16. Chủ động tấn công địch, đêm 12, rạng 13/5/1968, bộ đội địa phương Tân Uyên, phối hợp với lực lượng Trung đoàn 174, Sư đoàn 7 tập kích cụm quân Úc tại Sở Hội, đánh thiệt hại nặng Tiểu đoàn 4, Trung đoàn 12 thuộc Sư đoàn Hoàng gia Úc và 1 đại đội pháo hỗn hợp, loại khỏi vòng chiến đấu hơn 400 tên, phá hủy 3 khẩu pháo 105 ly, 3 khẩu cối 106,7 ly, bắn cháy 4 nhà dù (nhà lính), 2 xe tăng, phá hủy 4 ổ đại liên.
Ngày 16/5/1968, địch sử dụng 40 trực thăng HU1A đổ 1 tiểu đoàn thuộc Sư đoàn 1 bộ binh Mỹ xuống Sở Hội, nhằm chia cắt đường 16 và tăng áp lực vào Chiến khu Đ của ta. Chủ động tấn công địch, ngay đêm 16/5/1968, lực lượng Trung đoàn 2, Sư đoàn 7 bộ binh (chủ lực Miền), thực hiện trận tập kích đánh thiệt hại nặng Tiểu đoàn Mỹ. Địch hoảng hốt tháo chạy về cụm quân Mỹ đóng chốt tại ngã ba Cổng Xanh, bị trung đội trinh sát đặc công Tân Uyên và du kích Bình Mỹ phục kích chặn đánh trên đường rút chạy, loại khỏi vòng chiến đấu hơn 30 tên. Tiếp đó, ngày 26/5/1968, Đại đội 1, bộ đội địa phương huyện Tân Uyên cùng du kích xã Bình Mỹ phối hợp với lực lượng bộ đội chủ lực Miền tập kích cụm quân Mỹ đóng bàu Đông Tràm, đánh thiệt hại 1 đại đội, phá hủy 3 khẩu pháo 105 ly.
Cuối năm 1968, địch đưa lực lượng Sư đoàn kỵ binh bay Mỹ, mở cuộc càn quét quy mô lớn vào địa bàn bắc huyện Châu Thành, nam đường 16, trọng điểm là ba xã Vĩnh Tân, Tân Bình, Bình Mỹ, nhằm đẩy lực lượng vũ trang ta ra khỏi bàn đạp cửa ngõ Chiến khu Đ, hỗ trợ cho quân đội Việt Nam Cộng hòa thực hiện bình định gom dân trở lại các ấp chiến lược. Cả quân Mỹ và Việt Nam Cộng hòa đi đến đâu cũng vấp phải những bãi tử địa bằng mìn trái, bàn chông, hố đinh của du kích cài đặt tại các khu vực Vườn Thơm, Gò Găng, Vườn Cau, rừng Cù Đèn, suối Nhánh... (xã Vĩnh Tân), Cổng Xanh, Xóm Bố (xã Tân Bình), Bàu Gốc, Bàu Sóng Rắn, ấp Bà Chủ... (xã Bình Mỹ). Sau mấy ngày càn quét, hàng chục tên bị thương vong vì vướng mìn trái, địch quay về cụm lại tại Bình Mỹ. Quyết tâm tiêu diệt địch, Ban Chỉ huy quân sự huyện Tân Uyên sử dụng Đại đội 1, phân đội công binh cùng du kích xã Bình Mỹ, Tân Bình, tập kích cụm quân Mỹ đóng dã ngoại tại Bình Mỹ, tiêu diệt hơn 20 tên, bắn cháy và phá hủy 4 xe tăng, xe bọc thép, 2 xe ủi đất.
Phát huy tinh thần tự lực, trong suốt cuộc tổng tiến công và nổi dậy từ tết Mậu Thân đến cuối năm 1968, ngoài nguồn vũ khí trên cấp, Phân khu cũng như các huyện, thị và du kích xã không ngừng sản xuất vũ khí tự tạo. Xưởng Quân giới huyện Tân Uyên (quân số gần 40 đồng chí), trong năm 1968, có tháng sưu tầm được 500-650kg thuốc TNT để sản xuất mìn đầu gạt, thủ pháo, mìn DH. Trong 6 tháng đầu năm 1968, xưởng đã sản xuất 6,5 tấn vũ khí và hơn một ngàn ống nổ điện. Nếu tính cả năm 1967, Xưởng Quân giới huyện đã sản xuất số vũ khí (mìn ĐH, thủ pháo, lựu đạn, mìn đầu gạt,...) nhiều hơn xưởng Quân giới Z30, gấp 3 lần xưởng Z24A của Miền[4].
Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt Xuân Mậu Thân 1968, Đảng bộ, quân và dân Phân khu 5 đã chấp hành mệnh lệnh của Đảng vô điều kiện, nỗ lực vượt bậc, kết hợp cả tiến công quân sự đồng loạt tập kích vào các thị trấn, thị xã, đánh vào nội đô; phát động quần chúng nổi dậy phá kìm, bao vây, bức rút, bức hàng nhiều đồn bót, phối hợp nhịp nhàng với chiến trường toàn Miền giành được những thắng lợi quan trọng.
4.1. Kiên cường bám trụ, đánh địch phản kích, tích cực xây dựng và củng cố phong trào chống phá bình định (đầu năm 1969 - cuối năm 1971)
Ngày 20/01/1969, Níchxơn lên nhậm chức Tổng thống đã đề ra chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”. Thực chất là Mỹ tiếp tục sử dụng học thuyết “dùng người Việt đánh người Việt” bằng tiền bạc, vũ khí do Mỹ cung cấp và chỉ huy. Mục tiêu cơ bản của chiến lược này là rút quân Mỹ ra khỏi miền Nam Việt Nam mà vẫn giữ được chính quyền Việt Nam Cộng hòa, vừa xuống thang chiến tranh, vừa phản công quyết liệt để chống lại phong trào cách mạng của nhân dân ta. Để thực hiện chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”, địch sử dụng sức mạnh tối đa của bom đạn, rải chất độc hóa học có tính chất hủy diệt, kết hợp với những thủ đoạn quân sự, chính trị, kinh tế, chiến tranh tâm lý, tình báo, gián điệp… nhằm “tìm diệt” lực lượng vũ trang của ta và “bình định” nông thôn miền Nam.
Miền Đông Nam Bộ là chiến trường trọng điểm. Lấy Sài Gòn làm trung tâm, địch hình thành ba tuyến phòng thủ: Tuyến ven đô, tuyến giữa và tuyến biên giới. Bắc Tân Uyên thuộc tuyến giữa (gồm Dầu Tiếng, Bến Cát, Lai Khê, Phước Vĩnh, Tân Uyên, Phú Lợi) là địa bàn cơ động quan trọng nhất, là vành đai vừa ngăn chặn, vừa làm vị trí xuất phát tiến công ta. Địch ưu tiên số một cho tuyến trung gian này trong bố trí sử dụng lực lượng thực hiện bình định và càn quét.
Đầu năm 1969, địch tập trung hỏa lực lớn, từ căn cứ Lai Khê tiến quân đánh phá đọc đường 13, 14, 16 càn quét vào căn cứ ta ở Rẫy Gạch, Suối Ôi, Bàu Tiền Tà, Bàu Gốc, Trâu Quỳ, Chang Chang, Bà Bèo, Bà Đã, Bến Trám,… Lợi dụng mùa khô, chúng dùng bom xăng và chất độc hóa học để hủy diệt rừng cùng với việc thả các loại máy dò tiếng động và biệt kích Mỹ luồn sâu vào căn cứ hòng phát hiện, đánh phá các hành lang vận chuyển của ta. Quanh khu vực Chiến khu Đ, ở các vùng tạm chiến, địch xây dựng thêm nhiều đồn bót, cưỡng ép thanh niên gia nhập “dân vệ” để canh gác, bảo vệ bộ máy kìm kẹp; ở các vùng tranh chấp, chúng ráo riết càn quét, gom dân vào ấp chiến lược, đồng thời, tung tình báo, gián điệp trà trộn trong dân để đánh phá cơ sở cách mạng.
Trong khi đó, năm 1969, ta gặp nhiều khó khăn do tiêu hao lực lượng, quân số thiếu trầm trọng, chưa kịp bổ sung, địa bàn bị thu hẹp, phong tỏa,… mọi sinh hoạt phải chuyển xuống hầm, hào. Lợi dụng tình thế khó khăn của ta, địch đẩy mạnh chiến tranh tâm lý, kêu gọi chiến sĩ ra hàng. Mặt khác, chúng dùng những phần tử phản bội để nhận mặt chỉ điểm, phá vỡ nhiều cơ sở cách mạng. Nhiều cán bộ ta bị bắt, hy sinh, thậm chí đầu hàng trong thời điểm này.
Mặc dù gặp nhiều khó khăn nhưng các chi bộ kiên quyết bám trụ, giữ vững địa bàn, củng cố cơ sở cách mạng, đẩy mạnh chiến tranh du kích. Mục tiêu trọng tâm lúc này là phá lỏng, phá vỡ bộ máy kìm kẹp của địch. Thực hiện chủ trương của Huyện ủy, đồng chí Huỳnh Thị Chấu bám trụ xây dựng, củng cố cơ sở, có lúc phải sống dưới hầm bí mật hàng tháng trời chờ bắt liên lạc với quần chúng. Ngày 20/10/1969, bọn mật thám đánh hơi theo dõi và tổ chức phục kích đồng chí trong một chuyến công tác. Đồng chí hy sinh trong lúc các cơ sở bắt đầu hồi sinh.
Trong những năm 1969-1970, ta bị tổn thất lực lượng lớn trên địa bàn vùng trung tuyến một phần do địch thường xuyên đánh phá ác liệt bằng phi pháo, chất độc hóa học, càn quét, ủi phá,... nhưng một phần do ta chuyển phương thức hoạt động chậm, chưa kịp thời xây dựng lực lượng mật trong dân, trong khi bộ máy kìm kẹp của địch ở cơ sở đã được tăng cường. Do đó, những trận đột kích ấp của ta dễ bị địch phát hiện phản kích, phục kích gây thương vong.
Cuối tháng 5/1970, tại căn cứ suối Bà Hào, Phân khu 5 mở Hội nghị đại biểu Đảng bộ lần thứ nhất. Hội nghị đã đánh giá kết quả chấp hành nghị quyết của Đảng bộ từ năm 1968 và đề ra sáu nhiệm vụ chủ yếu cần tập trung lãnh đạo trong thời gian tới.
Tháng 6/1970, Phân khu ủy Phân khu 5 mở đợt hoạt động vũ trang sâu rộng, đánh phá kế hoạch bình định nhằm giảm bớt áp lực của địch ở Chiến khu. Đêm mùng 7 rạng ngày 08/6/1970, bằng lối đánh đặc công, Đại đội đặc công 504 và Tiểu đoàn 1 của Phân khu 5 đã tập kích cụm quân địch đóng chốt Thầy Phòng trên đường 16, đánh thiệt hại nặng Tiểu đoàn 3, Trung đoàn 7, Sư đoàn 5 bộ binh Việt Nam Cộng hòa, loại khỏi vòng chiến 170 tên (có 2 cố vấn Mỹ), phá hủy 4 khẩu pháo 105 ly, đánh sập 35 nhà hầm, hầm ngầm lô cốt của địch, bắn rơi 2 máy bay lên thẳng. Trận đánh chốt Thầy Phòng của lực lượng chủ lực Phân khu đã gây thối động tinh thần binh lính địch đóng các đồn bót lẻ xung quanh. Mấy ngày sau, lính bảo an, dân vệ đóng các đồn bót ở Bình Mỹ, Tân Bình, đào bỏ ngũ gần 100 tên. Bọn lính thuộc Tiểu đoàn 3, Trung đoàn 7, Sư đoàn 5 bộ binh Việt Nam Cộng hòa còn sống sót ở chốt Thầy Phòng tìm cách bỏ trốn. Các bót bảo an, dân vệ ở các ấp chiến lược Tân Bình, Bình Mỹ ngày nào cũng có một, hai tên bỏ trốn.
Phát huy thắng lợi, bộ đội địa phương cùng du kích các xã đẩy mạnh hoạt động diệt ác, phá tề, vận động quần chúng đấu tranh với địch, ở ấp chiến lược Nhà Đỏ (Tân Bình), đồng bào chống địch gài trái xung quanh ấp. Nhân dân Bình Mỹ chống bầu cử, không tín nhiệm tề xã ấp, không vào tổ chức hợp tác xã của địch, không vào phòng vệ dân sự đi gác... buộc chúng phải nhượng bộ. Địch co lại trong đồn bót, thế kìm kẹp bị phá lỏng, quần chúng đi lại làm ăn được dễ dàng hơn trước, tạo điều kiện cho ta củng cố và phát triển cơ sở mật trong các ấp chiến lược ở các khu vực xung quanh. Các “cửa khẩu” Bình Mỹ, Bông Trang quần chúng đi lại, mua bán dễ dàng hơn. Nhờ xây dựng được cơ sở nội tuyến, ở Tân Bình, từng lúc nhân dân chở được gạo bằng xe bò ra bán cho cách mạng.
Trung tuần tháng 11/1970, Thường vụ Phân khu ủy Phân khu 5 họp đề ra nhiệm vụ hoạt động mùa khô năm 1970-1971 cho Đảng bộ, quân và dân Phân khu là tập trung mọi lực lượng chính trị, vũ trang, binh vận phục vụ cho đánh phá bình định, làm lỏng, rã bộ máy kìm kẹp của địch ở diện rộng lớn hơn, nâng cao và củng cố quyền làm chủ của ta lên một bước.
Từ ngày 20/5 đến ngày 20/6/1971, Phân khu 5 quyết định mở đợt hoạt động cao điểm đánh phá chương trình bình định của địch. Khu vực trọng điểm ở Bắc Tân Uyên là Bình Mỹ, Tân Bình. Đúng đêm 20/5/1971, các điểm, diện đồng loạt nổ súng đánh vào các mục tiêu. Bộ đội huyện phối hợp du kích xã đột nhập vào các ấp của xã Tân Phước, Thới Hòa, Hòa Lợi, Phú Chánh,... diệt ác ôn, đánh bọn ruồng bố bên ngoài. Khắc phục khó khăn, bộ đội, du kích ém quân nhiều ngày trong vùng trọng điểm diệt từng tiểu đội, trung đội địch tại Nhà Đỏ (Tân Bình), pháo kích hậu cứ Phú Lợi…
Tháng 5/1971, Trung ương Cục quyết định sáp nhập Phân khu 5 và tỉnh Biên Hòa thành Phân khu Thủ Biên. Trung ương Cục chỉ định Ban Chấp hành Phân khu ủy gồm các đồng chí: Nguyễn Văn Trung (Sáu Trung) làm Bí thư; các đồng chí Phan Văn Trang (Năm Trang) Nguyễn Văn Luông (Sáu Phát); Nguyễn Hồng Lâm làm Phó Bí thư. Cuối tháng 9/1971, Phân khu ủy Phân khu Thủ Biên chủ trương thực hiện đợt hoạt động cao điểm mùa mưa tiếp tục đánh phá bình định, chống bầu cử của địch với yêu cầu: Phá lỏng, phá rã trên diện rộng, xây dựng phát triển lực lượng ta tại chỗ; tác chiến đánh bọn yểm trợ bình định nhằm hỗ trợ cho đấu tranh chính trị, binh vận và đẩy mạnh phong trào du kích chiến tranh lên một bước. Hai huyện trọng điểm của đợt hoạt động là Tân Uyên, Châu Thành. Phú Chánh được chọn là xã điểm cho đợt hoạt động cao điểm mùa mưa vì là điểm nóng tranh chấp quyết liệt giữa ta và địch.
Trong khi chính quyền địch đang tuyên truyền cho bầu cử Tổng thống, ngày 03/10/1971, lực lượng vũ trang Phân khu Thủ Biên đồng loạt tiến công vào các sân bay, hậu cứ lớn của địch ở Phú Lợi, Phước Vĩnh, Lai Khê, Tân Uyên,... bằng những trận tập kích, pháo kích. Ta đánh địch kết hợp với vũ trang tuyên truyền ở ấp chiến lược An Hòa xã Hòa Lợi diệt 12 tên ác ôn, phượng hoàng, thám báo. Đại đội công binh 506 và du kích Tân Uyên, Châu Thành phá hoại giao thông đường 16, 14, hỗ trợ đồng bào đấu tranh không đi bầu cử. Đại đội bảo an địch ở Bình Mỹ, Bình Cơ, Tân Bình nghe lời vận động của quần chúng cũng hưởng ứng không ngăn cản quần chúng đấu tranh chống bầu cử.
Phát huy thắng lợi, ta tiếp tục đẩy mạnh tiến công. Từ ngày 6 đến ngày 16/10/1971, Tiểu đoàn 1 (D800) liên tục đánh địch ở nam, bắc suối Bà Tảo, Sở Cao su Phú Hưng, ấp Bàu Cỏ, xã Phước Hòa, diệt hơn 100 tên thuộc Sư đoàn 5 Việt Nam Cộng hòa. Tại khu vực trọng điểm (Tân Uyên, Châu Thành), lực lượng Phân khu cùng lực lượng địa phương diệt ác ở Bình Mỹ, Chánh Lưu, Tân Bình... Đại đội Công binh 506 cùng lực lượng huyện Châu Thành và du kích xã tập kích, đánh thiệt hại nặng đại đội lính tiểu khu Bình Dương lên càn quét và ngủ lại ở Gò Đình xã Phú Chánh.
Từ năm 1969 đến cuối năm 1971, quân và dân Bắc Tân Uyên đã kiên cường bám trụ, nêu cao tinh thần chủ động tiến công, anh dũng chiến đấu vượt qua thời kỳ đầy khó khăn. Thực hiện sự chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh, Bắc Tân Uyên đã lãnh đạo quân, dân từng bước chuyển phương châm hoạt động phù hợp với tình hình, tăng cường củng cố các tổ chức cơ sở Đảng, tổ chức quần chúng, từng bước khôi phục, làm chủ địa bàn, tạo thế và lực mới để cùng quân và dân toàn tỉnh bước vào cuộc tiến công chiến lược năm 1972.
4.2. Đẩy mạnh đánh phá bình định, góp phần đánh bại chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” (tháng 1/1972 - tháng 1/1973)
Tháng 5/1971, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng ban hành Nghị quyết về việc động viên toàn Đảng, toàn dân và toàn quân nắm lấy thời cơ lớn đẩy mạnh tiến công quân sự, chính trị và ngoại giao, phát triển thế chiến lược tiến công mới trên toàn chiến trường miền Nam và Đông Dương, đánh bại chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” của Mỹ…
Trong chiến dịch tổng hợp năm 1972, Phân khu Thủ Biên là chiến trường phối hợp. Chấp hành phương hướng, nhiệm vụ của Trung ương Cục và Bộ Chỉ huy Miền và xuất phát từ tình hình thực tế của chiến trường, Phân khu ủy xác định nhiệm vụ chung trong tháng đầu của đợt Xuân - Hè năm 1972 là: Đẩy mạnh ba mũi giáp công đánh phá bình định, liên tục làm lỏng, rã bộ máy kìm kẹp của địch giành quyền làm chủ trên diện rộng và nâng thế làm chủ một bước cao hơn để hoàn thành bước một đánh phá bình định, trong điều kiện thuận lợi bung dân về xóm cũ sản xuất đông hơn, diện rộng hơn ở một số vùng trong các huyện Châu Thành, Tân Uyên... Phát huy khả năng ba thứ quân, liên tục tiến công tiêu diệt lực lượng ác ôn, kìm kẹp…
Để bảo đảm sự lãnh đạo, chỉ đạo kịp thời địa bàn trọng điểm của chiến dịch, Phân Khu ủy quyết định thành lập Ban Chỉ huy tiền phương Chiến dịch Xuân - Hè, do đồng chí Bùi Khánh Ngươn, Phân khu ủy viên, Phân khu phó - Tham mưu trưởng Bộ Chỉ huy Phân khu làm Chỉ huy trưởng; đồng chí Nguyễn Văn Luông, Phó Bí thư Phân khu ủy làm Chính ủy; đồng chí Nguyễn Trọng Tâm, Phân khu ủy, phụ trách công tác binh vận, cùng đồng chí Bí thư Huyện ủy Tân Uyên, Châu Thành và một số đồng chí của các cơ quan, các ngành của Phân khu. Ban Chỉ huy tiền phương Phân khu trong Chiến dịch Xuân - Hè 1972 có nhiệm vụ trực tiếp chỉ đạo các đơn vị trong Phân khu và lực lượng các huyện Tân Uyên, Châu Thành, Phú Giáo… Huyện Châu Thành và Tây Bắc huyện Tân Uyên được xác định là khu vực trọng điểm của Phân khu. Khu vực thu hút để tiêu diệt địch là Đông đường 16, Bắc thị trấn Tân Uyên và Tây Nam Tân Uyên. Hướng bung dân là Vĩnh Tân, Hòa Lợi, Tân Phước, Tân Hiệp (Châu Thành), Phước Vĩnh và 5 xã Chiến khu Đ.
Thực hiện nhiệm vụ của Bộ Chỉ huy Miền, Nghị quyết của Phân khu ủy, từ đầu tháng 3/1972, quân và dân Phân khu Thủ Biên đã mở đợt hoạt động đánh phá bình định trên toàn địa bàn. Mở đầu đợt hoạt động ta tổ chức pháo kích vào căn cứ địch ở Phú Lợi, vị trí chỉ huy Tiểu đoàn 2 Trung đoàn 11 thiết giáp Mỹ chuyển ra đóng trên đường 16, Chi khu quân sự Tân Uyên, tập kích các đại đội bảo an đóng ở Tân Bình, Phú Chánh... loại khỏi vòng chiến đấu hơn 200 tên địch.
Kết hợp với hoạt động vũ trang, quần chúng ở các xã Bình Mỹ, Khánh Vân, Phước Hòa,… vận động, lôi kéo, kết hợp hù dọa làm tan rã nhiều toán phòng vệ dân sự (Bình Mỹ 3 toán, Khánh Vân 2 toán, Phước Hòa 1 toán) và hàng chục tên trả súng không đi gác. Bị quần chúng tác động cùng với tin tức từ các chiến trường, chỉ trong tháng 4/1972, ở các huyện Tân Uyên, Phú Giáo, Châu Thành đã có 107 binh lính địch đào rã ngũ, phần lớn là bảo an, dân vệ. Trong thời gian này, cán bộ và du kích mật, lộ các địa phương thực hiện vũ trang tuyên truyền, dán rải hàng chục ngàn tờ truyền đơn giải thích 10 chính sách của Chính phủ Cách mạng lâm thời và vạch trần âm mưu của kẻ thù, vận động đồng bào có con em bị địch bắt đi lính trở về với gia đình. Nhiều xã ở Phú Giáo, Tân Uyên nhờ khống chế được bọn tề ấp, xã, quần chúng đã giành được quyền làm chủ ở những mức độ khác nhau. Một số xã như Bình Mỹ, Khánh Vân, Thạnh Hội, Thái Hòa, quần chúng đấu tranh bung ra về cất chòi ở xóm cũ sản xuất.
Cuối tháng 7/1972, cùng với du kích Bình Cơ, bộ đội Tân Uyên bao vây cô lập bót Bình Cơ suốt 1 tuần lễ, cắt đứt giao thông đường 16. Đến ngày 03/8, Tiểu đoàn bảo an 306 từ Tân Uyên tiến vô Bình Cơ phản kích, bị ta chặn đánh quyết liệt, tiêu diệt một đại đội, đánh thiệt hại nặng một đại đội khác. Ngày 04/8, Đại đội bảo an 171 từ Phú Giáo xuống giải tỏa Bình Cơ, bị ta đánh thiệt hại nặng. Cùng lúc ấy, tại Chi khu Tân Uyên, ta tổ chức nhiều đợt đột kích, đánh phá uy hiếp địch.
Nhằm củng cố bộ máy kìm kẹp địa phương và lấn chiếm vùng giải phóng, ngày 03/11/1972, hai Chiến đoàn 8 và 9 thuộc Sư đoàn 5 bộ binh Việt Nam Cộng hòa tổ chức càn vào khu vực Bông Trang - Nhà Đỏ, An Hòa, An Lợi, Chánh Lưu,... Cuộc càn gặp phải sự chống trả quyết liệt của chủ lực Miền, chủ lực Quân khu. Kết quả, hơn 100 tên thiệt mạng và hai máy bay lên thẳng bị bắn rơi.
Trong tháng 10/1972, cuộc tiến công và nổi dậy liên tục khắp nơi của Phân khu đã đánh mạnh vào lực lượng kìm kẹp của địch ở các xã, ấp, loại khỏi vòng chiến đấu 3.215 tên, thu 200 súng các loại, đánh sập 14 tua khác, giải tán hàng trăm phòng vệ dân sự, vận động gần 300 binh lính địch đào rã ngũ, phá lỏng, phá rã hàng loạt ấp chiến lược và hơn 10.000 đồng bào từ 9 xã, 28 ấp chiến lược bung về xóm cũ làm ăn sinh sống ở những mức độ khác nhau.
Trước sự phát triển của tình hình, cục diện chiến trường đã thay đổi, cuối năm 1972, Trung ương Cục quyết định tổ chức lại chiến trường miền Đông Nam Bộ, giải thể các Phân khu, thành lập lại các tỉnh. Tháng 9/1972, Phân khu Thủ Biên giải thể, tỉnh Thủ Dầu Một được tái lập. Đồng chí Nguyễn Văn Trung (Sáu Trung), được Trung ương Cục chỉ định làm Bí thư Tỉnh ủy. Lúc này huyện Tân Uyên thuộc tỉnh Thủ Dầu Một.
Ngay sau khi tái lập tỉnh, Tỉnh ủy kịp thời tập trung lãnh đạo, xây dựng từ trong Đảng ra các ban, ngành, từ tỉnh xuống huyện, xã, các đơn vị lực lượng vũ trang, quán triệt tư tưởng tiến công; uốn nắn kịp thời tư tưởng trông chờ Hiệp định, co thủ, thiếu tin tưởng vào khả năng của địa phương, đơn vị, nhất là khi Mỹ lật lọng không ký kết (tháng 10/1972)… Từ đó, làm chuyển biến nhận thức tư tưởng, tiếp tục đẩy mạnh tiến công địch. Càng gần đến ngày ký kết hiệp định cuộc đấu tranh giành đất, giành dân, giành quyền chủ động trên chiến trường giữa ta và địch càng quyết liệt. Những cố gắng quân sự của địch hòng giành ưu thế trên chiến trường khi có Hiệp định đã bị quân dân ta giáng trả quyết liệt.
Trước tình thế không thể đảo ngược, ngày 27/01/1973, đế quốc Mỹ buộc phải chấp nhận ký Hiệp định Pari về chấm dứt chiến tranh lập lại hòa bình ở Việt Nam, chấp nhận rút hết quân viễn chinh khỏi miền Nam; tôn trọng độc lập, chủ quyền và sự toàn vẹn lãnh thổ Việt Nam; các lực lượng vũ trang của ta sẽ ở nguyên vị trí. Hiệp định Paris đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta, là một thắng lợi rất to lớn trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc Việt Nam.
Từ sau cuộc Tổng tiến công và nổi dậy năm 1968 đến tháng 01/1973, các lực lượng dân, quân, chính, đảng ở vùng Bắc Tân Uyên đã trải qua 5 năm chiến đấu hy sinh, gian khổ và quyết liệt, từng bước khôi phục củng cố và phát triển thực lực cách mạng; kiên cường bám trụ, đánh địch phản kích. Các lực lượng của địa phương cùng chủ lực Khu, Miền đã anh dũng chiến đấu bền bỉ đánh bại âm mưu bình định và cô lập căn cứ của địch. Hiệp định Paris được ký kết, Mỹ phải chịu thất bại cuốn cờ về nước. Mỹ đã cút, nhưng ngụy chưa nhào. Cuộc đấu tranh của quân và dân ta chưa kết thúc. Các chi bộ, quân và dân Bắc Tân Uyên quyết tâm cùng quân, dân trong tỉnh và cả nước tiếp tục cuộc kháng chiến đến thắng lợi hoàn toàn.
5.1. Phát triển lực lượng, tạo thế và lực mới, đánh địch bình định lấn chiếm, giữ vững vùng giải phóng
Sau khi Hiệp định Paris được ký kết, trên chiến trường, tương quan lực lượng giữa ta và địch đã có sự thay đổi căn bản có lợi cho ta. Quân Mỹ và chư hầu buộc phải rút khỏi miền Nam Việt Nam. Chính quyền Sài Gòn mất hẳn chỗ dựa quan trọng và suy yếu rõ rệt. Đối với ta, lực lượng vũ trang ba thứ quân ngày càng vững mạnh. Vùng đất giải phóng được mở rộng và nối liền với hậu phương miền Bắc. Ở vùng tranh chấp, vùng ven hình thành thế “da beo” áp sát căn cứ địch.
Được Mỹ tiếp sức, lợi dụng quy định ngưng bắn có hiệu lực, chính quyền Sài Gòn mở những cuộc hành quân “tràn ngập lãnh thổ” nhằm lấn đất, giành dân. Tiếp đó, chúng thực hiện kế hoạch “bình định đặc biệt”, nhanh chóng lấn chiếm lại những lõm đã mất trước ngày ngưng bắn, nông ra vùng giáp ranh, uy hiếp hành lang vận chuyển của ta, nhằm cải thiện thế phòng ngự, hỗ trợ cho kế hoạch bình định ở vòng trong.
Đi đôi với những cuộc hành quân lấn chiếm, địch ra sức củng cố bộ máy kìm kẹp xã, ấp, đưa sĩ quan quân đội và cảnh sát về nắm bộ máy chính quyền ở cơ sở. Chúng dùng thủ đoạn kinh tế để mua chuộc, tranh thủ nhân dân như chia ruộng đất cho nông dân (theo chương trình cải cách điền địa của Thiệu); cho vay vốn, cấp giống, đưa máy cày về nông thôn... Đẩy mạnh chiến tranh tâm lý, xuyên tạc Hiệp định Paris, bao vây, triệt phá kinh tế của ta, lôi kéo quần chúng vào tổ chức phản động của địch.
Trên địa bàn Chiến khu Đ và vùng ven (lộ 13, lộ 14, lộ 20) ngay sau khi Hiệp định được ký kết, địch liên tục mở các cuộc hành quân lấn chiếm. Bọn tình báo, phượng hoàng, thiên nga trà trộn vào trong dân ra các vùng giải phóng sản xuất để nắm tin tức và phát hiện cơ sở cách mạng. Xung quanh các ấp chiến lược, địch ủi trống địa hình, ủi phá rừng chồi nơi chúng nghi là căn cứ du kích. Pháo địch từ Biên Hòa, Đại An, Tân Uyên, Phước Hòa, Phước Vĩnh, Đồng Xoài bắn vào vùng giải phóng để ngăn chặn dân đi sản xuất, không cho dân liên lạc với cách mạng.
Ở vùng trọng điểm, Nam Bắc lộ 14, địch đẩy mạnh lấn chiếm. Trung đoàn 9 Sư đoàn 5 lên lấn chiếm lộ 14. Đoạn từ Tân Bình đến Phước Vĩnh, địch bố trí hàng chục cụm chốt, mỗi cụm từ một đến hai đại đội chủ lực đóng giữ. Trên đường 16 từ Tân Uyên đến Bình Mỹ, địch bố trí 2 tiểu đoàn của Trung đoàn 43 và 57, Sư đoàn 18. Các xã căn cứ Thường Lang, Lạc An, Tân Hòa, Tân Tịch, Mỹ Lộc, địch bố trí 4 tiểu đoàn bảo an (số 346, 347, 348, 349) từ Biên Hòa sang, kết hợp với biệt kích dù 81 từ Đồng Xoài xuống nhằm ngăn chặn lực lượng ta vượt sông Đồng Nai tiến công vào sân bay Biên Hòa. Tại Bình Mỹ, Bình Cơ, Phước Hòa, Phước Vĩnh và nam Đồng Xoài, địch bố trí 6 tiểu đoàn bảo an (số 301, 302, 320, 322, 345, 336). Đi đôi với hành động lấn chiếm vùng giải phóng, địch còn cấu kết với bọn tư sản đưa cơ giới vào khai thác gỗ nhằm phá địa bàn căn cứ. Từ tháng 02/1973, chủ lực địch có xe tăng, pháo binh yểm trợ liên tục đánh sâu vào căn cứ ở phía Nam, Tây Bắc và Bắc Chiến khu.
Trong khi ấy, một số đơn vị của ta từ chủ lực đến địa phương vẫn tin tưởng vào hiệu lực của Hiệp định Paris, chưa nhận thức hết tình hình phức tạp, âm mưu của địch. Vì thế, những đợt lấn chiếm, hành quân bất ngờ của địch gây cho ta những tổn thất đáng kể. Để kịp thời chấn chỉnh những hiện trạng thiếu cảnh giác, Trung ương Cục liên tục ra những Chỉ thị 01, 02 cùng nhiều Điện văn khẩn 775, 934 vạch rõ bản chất hiếu chiến, lật lọng của Mỹ - Thiệu, đồng thời, chỉ đạo các lực lượng vũ trang tăng cường đề cao cảnh giác, kiên quyết chống địch lấn chiếm.
Từ ngày 28/4 đến 12/5/1973, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Thủ Dầu Một mở hội nghị nhằm đánh giá tình hình địch, ta và đề ra những nhiệm vụ trước mắt. Hội nghị tỉnh Đảng bộ xác định nhiệm vụ phương hướng chung của tỉnh Đảng bộ trong thời gian trước mắt là: “Nỗ lực tập trung chỉ đạo mở rộng và nâng phong trào đấu tranh chính trị, binh vận, nắm chắc, sử dụng đúng mức lực lượng vũ trang kết hợp chặt chẽ ba mũi, kiên quyết chủ động và liên tục tiến công làm thất bại các âm mưu thủ đoạn của địch, ngăn chặn bẻ gãy, đẩy lùi âm mưu bình định, lấn chiếm của địch, ra sức giữ vững, củng cố và không ngừng mở rộng, nâng cao quyền làm chủ vùng tranh chấp, tích cực mở rộng diện nắm dân, gây dựng phục hồi cơ sở, đưa phong trào từ thấp lên cao ở vùng yếu, thị xã, thị trấn. Nhanh chóng xây dựng củng cố vùng căn cứ giải phóng toàn diện, vững chắc. Tập trung và khẩn trương xây dựng thực lực chính trị, vũ trang, đảng, đoàn, lực lượng lộ, mật, ra sức động viên sức người, sức của cả ba vùng nhằm làm thay đổi tương quan tại chỗ có lợi cho ta, sẵn sàng đánh trả, từng bước buộc địch thi hành hiệp định, sẵn sàng đánh bại những hành động liều lĩnh gây lại chiến tranh của địch”[5].
Để đối phó với âm mưu, thủ đoạn của địch, thực hiện chỉ thị của Trung ương Cục và Đảng bộ Thủ Dầu Một, Huyện ủy Tân Uyên chỉ đạo các chi bộ quán triệt chủ trương chung của tỉnh về chống phá bình định. Mục tiêu trọng tâm trong giai đoạn này là đấu tranh ba mũi giáp công, kết hợp đấu tranh pháp lý, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục, phổ biến những điều khoản của Hiệp định Pari.
Ở phía nam Chiến khu Đ, theo chỉ đạo của Khu ủy và Quân khu ủy miền Đông, ngày 26/5/1973, Tiểu đoàn Phú Lợi (tỉnh Thủ Dầu Một) đã chặn đánh 3 tiểu đoàn địch càn quét lấn chiếm ở Bình Mỹ, Tân Bình (2 Tiểu đoàn 321, 360 bảo an và 1 tiểu đoàn của Trung đoàn 9 Sư đoàn 5). Ta đã đánh thiệt hại nặng một tiểu đoàn địch, phá hủy nhiều xe quân sự và nhiều đồ dùng quân sự.
Chặn đứng cuộc lấn chiếm của địch ở Bình Mỹ, Tân Bình đã củng cố được phong trào chiến tranh nhân dân chống địch lấn chiếm trong căn cứ. Những ngày cuối tháng 5/1973, bộ đội địa phương Phú Giáo, Tân Uyên và du kích các xã Mỹ Lộc, Tân Tịch, Thường Lang, Lạc An đã liên tục chặn đánh địch lấn chiếm, hạn chế hoạt động của địch trên đường số 8, đường 14 và 16.
Ngày 14/7/1973, Trung đoàn 7, Sư đoàn 5 và Trung đoàn 43, 52, Sư đoàn 18 cùng 2 tiểu đoàn pháo bắn yểm trợ càn vào khu vực Bố Lá, Cổng Xanh, Phước Hòa, sân bay Ông Lình. Cùng trong ngày, hai tiểu đoàn biệt động quân (số 73 và 84), một tiểu đoàn bảo an tiểu khu Phước Long được điều lên án ngữ phía nam Đồng Xoài, càn phá vào đường ủi 322, lấn chiếm khu vực Bắc Tân Uyên. Kiên quyết trừng trị bọn địch vi phạm Hiệp định, giữ vùng giải phóng và căn cứ, trong hơn 10 ngày, bộ đội địa phương Thủ Dầu Một, tỉnh Phước Long, huyện Đồng Xoài, Phú Giáo, Tân Uyên đã chặn đánh địch quyết liệt. Ta diệt 350 tên, phá hủy 5 xe tăng, buộc địch phải rút lui về Đồng Xoài và Phước Vĩnh.
Trước những đòn giáng trả của quân dân Chiến khu Đ, địch phải bỏ một số cứ điểm, đồn bót cắm sâu vào căn cứ ta sau Hiệp định. Từ tháng 8/1973, địch chuyển hướng tập trung bình định vùng tạm chiếm. Hoạt động đánh phá vào Chiến khu Đ của địch chủ yếu là cho máy bay ném bom, bắn pháo, nhất là khu vực Bà Đã, vùng ven sông Đồng Nai (nam Chiến khu) khu vực sản xuất của ta.
Tháng 10/1973, Trung ương Cục quyết định thành lập tỉnh căn cứ Tân Phú, do đồng chí Nguyễn Văn Luông làm Bí thư Tỉnh ủy. Đến cuối năm 1974, tỉnh Tân Phú giải thể, hai huyện Tân Uyên và Phú Giáo lại trả về tỉnh Thủ Dầu Một.
Trong lúc chiến dịch mùa khô 1973-1974 đang phát triển, Trung ương Cục đã ra chỉ thị 01/CT/74 vạch rõ những công tác cụ thể để chuẩn bị cho nhiệm vụ chiến lược trong năm 1974. Chỉ thị 01 nhấn mạnh “công tác xây dựng căn cứ là một vấn đề rất lớn, rất cơ bản, rất bức thiết trước mắt cũng như lâu dài. Phải tạo được sự liên hoàn giữa địa phương, đơn vị quân đội của khu và chủ lực Miền”[6].
Thực hiện Chỉ thị 01, Khu ủy và Bộ Tư lệnh Quân khu đã xây dựng và thực hiện kế hoạch cụ thể nhằm xây dựng căn cứ cả về kinh tế, an ninh, quốc phòng… Trong chỉ thị về phát triển sản xuất, Khu ủy đề ra: “Phải tập trung sản xuất chủ yếu là cây lương thực, chú ý cả lúa để bảo đảm có ăn, chống đói trước mắt và có dự trữ lâu dài”[7]. Bằng nỗ lực và quyết tâm cao trong năm 1974 các đơn vị hậu cần Quân khu và các đơn vị trong căn cứ đã gieo trồng được 6.000ha cây lương thực và thu hoạch gần 8.000 tấn lương thực.
Tại Tân Uyên, 6 tháng đầu năm 1974, tình hình kinh tài được đánh giá có nhiều tiến bộ. Các xã ấp cũng như các đơn vị, cơ quan đều cố gắng tích cực tăng gia sản xuất, đã trồng được 74.500 gốc mì; tỉa được 47 lít lúa rẫy, 19 lít đậu xanh, 19kg đậu phộng, 270kg khoai lang; bắc mạ chuẩn bị cấy 18 giạ. Trong đó, Phước Hòa đã trồng được 20.000 gốc mì (hơn 1/4 tổng số gốc mì của huyện trồng được). Cả huyện tỉa được 47lít lúa rẫy thì Phước Hòa đã có 24 lít giống gieo; 200m2/270m2 là tỉ lệ diện tích khoai lang Phước Hòa trồng được. Kế đó là cơ quan Huyện đội (19.500 gốc mì, 5 giạ giống lúa đã gieo); Lạc An (13.000 gốc mì, 7kg đậu xanh, 7kg đậu phộng giống đã tỉa); Thường Lang (2.000 gốc mì, 100 gốc bầu bí); Bình Mỹ (4.000 gốc mì); các ấp vùng giải phóng Lạc An (4.600 gốc mì, 520 bụi môn, 3 lít đậu xanh); Mỹ Lộc và Tân Tịch (10 công cấy, 50 gốc bầu). Với những cố gắng trên, tình hình cải thiện đời sống cho các đơn vị, cơ quan có xu hướng tích cực. Nếu không có trở ngại gì hoặc không gặp thiên tai, địch họa thì mùa thu hoạch tới sẽ có hàng trăm tấn củ mì và hàng trăm giạ thóc được góp vào cho bữa ăn.
Kết thúc chiến dịch mùa khô 1973-1794, quân dân vùng Chiến khu Đ kết hợp chặt chẽ với những đòn tiến công của quân chủ lực Miền và các địa phương khác ở miền Đông đã giành được những thắng lợi lớn. Căn cứ Chiến khu Đ đã được mở rộng và hoàn chỉnh giáp với nam Tây Nguyên về phía bắc và phía đông, mở được những hành lang nối thông vùng Bắc Tây Ninh và vùng tam giác Dầu Tiếng, Bến Cát, Củ Chi, tạo thành căn cứ địa nối liền với hậu phương lớn miền Bắc. Đây là một thắng lợi mang ý nghĩa chiến lược trên cả ba mặt quân sự, hậu cần và chính trị, tạo thế và lực mới cho cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam.
5.2. Tham gia đánh bại các hoạt động đánh phá, bình định của địch. Cùng quân, dân toàn Miền thực hiện Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, giải phóng toàn miền Nam
Để ngăn chặn hoạt động của ta trong mùa khô, từ đầu tháng 01/1974, trên chiến trường miền Đông, địch sử dụng toàn bộ lực lượng Quân đoàn 3 kết hợp bảo an cơ động, mở những cuộc hành quân quy mô lớn đánh phá lấn chiếm nhiều hướng trên khắp chiến trường miền Đông. Cuối tháng 01/1974, địch tập trung lực lượng (Liên đoàn 322) biệt động quân và Trung đoàn 15, 18, 22 thiết giáp càn quét vào khu vực Hố Đá, Khánh Vân, Nhà Thờ. Riêng Trung đoàn bộ binh 43 (Sư đoàn 18) đánh phá các xã ven sông Đồng Nai: Thường Lang, Tân Tịch, Mỹ Lộc. Ngày 20/02/1974, Trung đoàn 52 (Sư đoàn 18) càn quét vào xóm Bà Tri. Ngày 24/02/1974, hai tiểu đoàn bảo an 309, 511 càn vào khu vực suối Sâu, ông Dưới, Hố Bàu; Lữ đoàn biệt kích 81 đổ quân vào khu vực Hiếu Liêm, càn quét khu vực Bà Ổi, Suối Cát, Bưng Cầu… Tháng 3/1974, địch tăng cường hai Trung đoàn 48 và 52 (Sư đoàn 18) tấn công các khu vực Bà Chủ, Ông Đông, Vĩnh Tân.
Song song với hoạt động lấn chiếm của chủ lực tại Tân Uyên, địch đẩy mạnh hoạt động tình báo, gián điệp để đánh phá cơ sở và tăng cường công tác tuyên truyền, tâm lý chiến. Để tranh thủ lòng tin của quần chúng, ngày 26/3/1974, chính quyền địch ở Chi khu Tân Uyên tập trung đồng bào tổ chức mít tinh chào mừng ngày chính quyền Thiệu ban hành “luật người cày có ruộng”. Tại Tân Hòa, địch tập trung được 40 người.
Với ý đồ đưa dân Công giáo - lực lượng mà địch tin tưởng “có tinh thần chống cộng triệt để” - vào các khu vực dọc lộ 16, hình thành vành đai an toàn bao vây phía Đông và Đông Nam Chiến khu, tại khu vực căn cứ suối Ông Đông, địch liên tục mở cuộc càn để triệt hạ căn cứ. Tại đây, nhiều cuộc càn của địch bị Đại đội 1 huyện đẩy lùi, gây nhiều tổn thất. Cũng tại đây, Đại đội 1 liên tục pháo kích vào các cụm quân dã ngoại của địch làm tiêu hao sinh lực địch.
Tháng 10/1974, Bộ Chính trị họp hội nghị đánh giá tình hình và đề ra nhiệm vụ mới của cách mạng. Hội nghị đã chỉ rõ: Chúng ta đã thúc đẩy thời cơ chiến lược chín muồi, đã tạo nên những yếu tố chiến lược quan trọng để tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn. Đó là cơ sở cho Trung ương Cục và Quân ủy Miền hạ quyết tâm mở Chiến dịch mùa khô năm 1974-1975 với địa bàn trọng điểm là miền Đông Nam Bộ, mục tiêu của Chiến dịch là đường 14 - Phước Long.
Chuẩn bị cho chiến dịch mùa khô năm 1974-1975, từ cuối năm 1974, Trung ương Cục quyết định giải thể tỉnh Tân Phú, giao huyện Tân Uyên, Phú Giáo và Dĩ An về tỉnh Thủ Dầu Một. Đồng chí Nguyễn Văn Luông, Bí thư Tỉnh ủy Tân Phú được chỉ định làm Bí thư Tỉnh ủy Thủ Dầu Một thay đồng chí Nguyễn Văn Trung về Khu ủy miền Đông.
Để thực hiện kế hoạch mùa khô năm 1974-1975, Trung ương Cục giao nhiệm vụ cho tỉnh Thủ Dầu Một thực hiện đẩy mạnh hoạt động phối hợp với chiến trường chính để phân tán lực lượng và tiêu hao, tiêu diệt sinh lực địch, chuyển thế đấu tranh ở các huyện vùng yếu của tỉnh phát triển mạnh mẽ hơn.
Quán triệt nhiệm vụ của Trung ương Cục giao, tháng 10/1974, Tỉnh ủy Thủ Dầu Một ra nghị quyết lãnh đạo quân dân trong tỉnh tích cực công tác chuẩn bị và đẩy mạnh mọi mặt hoạt động, sẵn sàng đón thời cơ mới là: “Đánh bại về cơ bản kế hoạch “bình định” lấn chiếm của địch, cùng quân dân toàn Miền giành thắng lợi to lớn có ý nghĩa quyết định, sẵn sàng mọi mặt cho những đợt hoạt động mới tiếp theo trong năm 1975”[8].
Đầu tháng 12/1974, chiến dịch mùa khô năm 1974-1975 mở ra trên các chiến trường. Đêm 12/12/1974, bộ đội chủ lực Miền và lực lượng địa phương tỉnh Bình Phước bắt đầu nổ súng tiến công, mở màn cho đợt 1 Chiến dịch đường 14 - Phước Long, giải phóng đoạn đường 14 từ Bù Na lên Bù Đăng và các vị trí địch bên ngoài tỉnh lỵ Phước Long.
Phối hợp với Chiến dịch đường 14 - Phước Long, từ đêm 07/12/1974, Đại đội đặc công 73 của tỉnh tập kích bót cầu Thợ Ụt (Châu Thành) do 1 đại đội bảo an tiểu khu Bình Dương đóng giữ; Tiểu đoàn Phú Lợi cùng Đại đội 62 của Châu Thành và du kích xã Vĩnh Tân chặn đánh Tiểu đoàn 3, Trung đoàn 52, Sư đoàn 18 đi càn quét ở Vĩnh Tân, đánh thiệt hại nặng tiểu đoàn địch, diệt 70 tên, bắt sống 7 tên, thu 75 súng (có 3 súng đại liên, 7 máy thông tin PRC25). Cùng đêm, du kích xã Phú Chánh, Tân Hòa phục kích diệt gọn 1 tiểu đội lính dân vệ đi tuần đường. Du kích các xã quanh Chiến khu Đ cùng bộ đội địa phương của Tân Uyên phối hợp với Tiểu đoàn Phú Lợi, Đại đội 73 đặc công của tỉnh, đánh tiêu diệt hơn 190 tên địch thuộc Trung đoàn 52, Sư đoàn 18 chuyển ra càn quét các xã dọc đường 16, bẻ gãy các cuộc càn của địch vào khu vực căn cứ Châu Thành, Tân Uyên, giữ vững bàn đạp đứng chân của tỉnh.
Ngày 06/01/1975, tỉnh Phước Long hoàn toàn giải phóng. Tin chiến thắng Phước Long bay tới Hà Nội giữa lúc Bộ Chính trị đang họp bàn kế hoạch thực hiện quyết tâm chiến lược giải phóng miền Nam trong hai năm 1975-1976. Căn cứ vào những diễn biến của tình hình, Bộ Chính trị chỉ rõ: “Nắm vững thời cơ lịch sử, mở nhiều chiến dịch tổng hợp liên tiếp, đánh những trận quyết định, kết thúc cuộc kháng chiến chống Mỹ, hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam, tiến tới thống nhất Tổ quốc… Chúng ta phải cố gắng cao nhất để thắng gọn trong năm 1975”[9].
Ngày 27/01/1975, Trung ương Cục, Quân ủy và Bộ Chỉ huy Miền họp quán triệt Nghị quyết Bộ Chính trị và điều chỉnh bổ sung kế hoạch bước 2 của mùa khô năm 1974-1975. Thực hiện quyết tâm của Bộ Chính trị và nhiệm vụ của Quân ủy, Bộ Chỉ huy Miền giao, trong 2 tháng đầu năm 1975 quân và dân Thủ Dầu Một cùng với toàn Miền tiếp tục đẩy mạnh chiến lược tiến công, tạo thế, tạo lực chuẩn bị cho cuộc chiến đấu quyết định.
Sau khi mất Phước Long, địch tập trung củng cố tuyến ngăn chặn ở tuyến giữa, làm lá chắn cho lực lượng bên trong hoạt động kìm kẹp quần chúng. Ngày 20/02/1975, địch mở cuộc càn vào khu vực Bình Chánh, Khánh Vân, Vĩnh Tân, Tân Hiệp, với lực lượng gồm 2 tiểu đoàn biệt động quân (46, 93), 1 tiểu đoàn bộ binh thuộc Trung đoàn 8, Sư đoàn 5, 1 tiểu đoàn bảo an 333, 3 chi đoàn thiết giáp cùng phi pháo yểm trợ. Ngày 28/2, địch sử dụng ba chi đoàn cơ giới cùng bộ binh càn vào khu vực Ông Đông, Bà Tri, ủi phá địa hình hòng lập tuyến ngăn chặn Nam đường 16, Đông Nam Châu Thành, từ Bến Sắn đến dọc đường số 8. Đầu tháng 3/1975, Trung đoàn 43, Sư đoàn 18 lại càn vào Đất Cuốc, Suối Cái để thăm dò lực lượng ta. Địch dùng máy bay ném bom đánh phá vào các xã, ấp vùng giải phóng.
Thực hiện quyết tâm của Tỉnh ủy, lực lượng huyện Tân Uyên, Châu Thành, phối hợp với các đơn vị bộ đội của tỉnh liên lục chiến đấu chống càn. Dựa vào địa hình và thế trận căn cứ bám trụ, bộ đội tỉnh, huyện cùng du kích các xã bố trí sẵn mìn trái kết hợp phục kích, tập kích, chặn đánh và tiêu diệt hơn 100 tên địch, phá hủy 23 xe tăng, xe bọc thép, thu nhiều vũ khí và đồ dùng quân sự. Địch không thực hiện được ý đồ lấn chiếm vùng giải phóng mà còn bị đánh bật khỏi bàn đạp Châu Thành, nam Tân Uyên buộc chúng phải rút quân về phòng thủ.
Những ngày cuối tháng 3/1975, tin chiến thắng dồn dập từ các cuộc tiến công và nổi dậy của quân và dân ta ở Tây Nguyên, Huế, Đà Nẵng làm nức lòng quân và dân cả nước. Ngày 31/3/1975, Bộ Chính trị họp và khẳng định: Cuộc chiến tranh cách mạng không những đã bước vào giai đoạn phát triển nhảy vọt mà thời cơ chiến lược để tiến hành tổng công kích, tổng khởi nghĩa vào sào huyệt của địch đã chín muồi, tốt nhất là trong tháng 4/1975, không thể để chậm.
Trước sự phát triển rất nhanh của tình hình, ngày 02/4/1975, Thường vụ Trung ương Cục chỉ thị cho các Tỉnh ủy và lực lượng vũ trang: “táo bạo, đánh các điểm then chốt kể cả các tiểu khu, thị xã, khi có thời cơ”[10] và “bằng tất cả khả năng sẵn có của địa phương mà mạnh dạn, táo bạo phát động quần chúng nổi dậy khởi nghĩa, ấp giải phóng ấp, xã giải phóng xã, huyện giải phóng huyện, tỉnh giải phóng tỉnh bằng lực lượng của bản thân phối hợp với chiến trường chung”[11].
Thực hiện quyết tâm chiến lược của Đảng, Chỉ thị của Trung ương Cục, ngày 02/4/1975, Thường vụ Tỉnh ủy có Chỉ thị 03/CT-TU cho Đảng bộ và quân, dân trong tỉnh yêu cầu cấp ủy các địa phương phải hết sức nhạy bén, linh hoạt, táo bạo, chủ động tiến công để phối hợp với chiến trường chung giành thắng lợi lớn…
Người dân Bắc Tân Uyên cùng hàng ngàn dân công của tỉnh được huy động tham gia tải gạo, tải đạn ra chiến trường, chuẩn bị cho bộ đội tập kết lực lượng và cơ động chiến đấu. Du kích các xã thuộc Bắc Tân Uyên đẩy mạnh tiến công, vây ép địch, không cho chúng bung ra ngoài hoạt động. Trong các xóm ấp, cán bộ ta bám trụ xây dựng cơ sở, phát động quần chúng nổi dậy đấu tranh, gọi hàng binh lính địch. Chỉ hơn một tuần lễ đầu tháng 4/1975, một số xã như Bình Mỹ, Tân Hòa… hàng chục lính đào rã ngũ, nhiều toán phòng vệ dân sự tự động giải tán, mang súng trở về tham gia du kích xã, góp phần đánh địch lập công.
Ngày 18/4/1975, Ủy ban Mặt trận dân tộc giải phóng và Ủy ban nhân dân cách mạng tỉnh Thủ Dầu Một ra lời kêu gọi: Toàn thể cán bộ, chiến sĩ, các cấp, các ngành, các vùng hãy phát huy cao độ vai trò tiên phong gương mẫu, kiên cường, bất khuất, đạp bằng mọi gian khổ, hy sinh, quyết cùng đồng bào liên tục tấn công, đập tan bộ máy kìm kẹp của địch, giành toàn bộ chính quyền về tay nhân dân.
Ngày 26/4/1975, từ các căn cứ cách mạng và vùng giải phóng, hàng vạn cán bộ, chiến sĩ của lực lượng vũ trang trong tỉnh cùng 2 sư đoàn chủ lực của Quân đoàn 1 và Đoàn 113 đặc công của Quân khu vượt qua bom đạn của kẻ thù, ào ạt tiến về mục tiêu theo kế hoạch.
Trong lúc này, tại Chi khu Tân Uyên và các khu vực trọng yếu xung quanh, lực lượng địch vẫn còn khá mạnh, gồm toàn bộ hậu cứ Trung đoàn 48, Sư đoàn 5, một đại đội pháo 105 ly, một đại đội bảo an, một đại đội thủy quân lục chiến…
Đêm 26 rạng ngày 27/4/1975, Tiểu đoàn 2 Phú Lợi của tỉnh được pháo binh Quân đoàn 1 chi viện, nổ súng tấn công cứ điểm Bình Mỹ, Bình Cơ, tiêu diệt Tiểu đoàn 306 bảo an (tiểu đoàn có nhiều nợ máu với nhân dân), bắt sống 17 tên, thu 92 súng các loại. Phối hợp với đòn tiến công quân sự, chi bộ lộ, cơ sở mật xã Bình Mỹ đã lãnh đạo vận động quần chúng nổi dậy phá ấp chiến lược, truy bắt tề điệp, kêu gọi binh lính ra hàng. Xã Bình Mỹ hoàn toàn giải phóng, ta làm chủ một đoạn đường 16 dài gần 10km, từ ấp 1 Bình Mỹ đến cầu Bình Cơ. Chiến thắng Bình Mỹ đã chọc thủng tuyến phòng ngự phía Bắc thị xã Thủ Dầu Một, mở thông đầu cầu cho các cánh quân của Quân đoàn 1 áp sát mục tiêu được an toàn. Cũng trong thời gian này, Nguyễn Văn Thiệt, Quận trưởng Tân Uyên đã vội chuyển cả gia đình qua Cù lao Mỹ Quới (nay thuộc xã Bạch Đằng), còn tên đại úy Tâm - Đại đội trưởng Đại đội pháo 105 ly vẫn lớn tiếng kêu gọi binh lính tử thủ đến cùng.
Thực hiện phương châm “Xã giải phóng xã, huyện giải phóng huyện, tỉnh giải phóng tỉnh”, Huyện ủy Tân Uyên đã quyết định phát động quần chúng nổi dậy phối hợp với cuộc tiến công của bộ đội chủ lực. Ngay trong ngày 28/4, du kích xã Bình Chánh, Khánh Vân, Phước Thành phát động quần chúng nổi dậy bức rút đồn Ông Thượng, bót 18 (Bình Chánh), chốt cầu Suối Cát (Khánh Vân); bộ đội địa phương huyện cùng du kích bao vây bức rút đồn dân vệ cây Sao Khô, bót sở 49. Bộ máy kìm kẹp của địch số bị diệt, số bị tan rã, ta hoàn toàn làm chủ hai xã Bình Chánh, Khánh Vân.
Đêm 28 rạng ngày 29/4/1975, lực lượng ta pháo kích Chi khu Tân Uyên, đồng thời các lực lượng địa phương áp sát vào thị trấn. Tuy nhiên, với lực lượng mạnh hơn ta nên địch phản công dữ dội, lực lượng ta bị tổn thất. Trước tình hình đó, khả năng dùng lực lượng tại chỗ để giải phóng trung tâm đầu não địch ở Tân Uyên khá khó khăn. Trong lúc này, đồng chí Huỳnh Tư với vai trò là Tỉnh đội phó Tỉnh đội Thủ Dầu Một được phân công đến đón cánh quân thuộc Quân đoàn 1 để mở mũi dẫn đường tiến về giải phóng Sài Gòn cũng vừa hành quân đến đây. Đồng chí Huỳnh Tư đã quyết định hướng đoàn quân chủ lực theo lộ 16 hành quân qua thị trấn cùng phối hợp với lực lượng địa phương huyện đè bẹp sự kháng cự của địch, nhanh chóng tiến về Sài Gòn vừa góp phần giải phóng Tân Uyên.
Gần 9 giờ sáng 29/4/1975, đoàn xe tăng dưới sự hướng dẫn của đồng chí Huỳnh Tư nã đạn tới tấp vào Chi khu Tân Uyên cùng các ổ đề kháng của địch. Các mũi tấn công của lực lượng ở Tân Uyên cũng đồng loạt xông lên phối hợp. Cùng với những tiếng đạn nổ liên hồi và tiếng xe tăng của ta gầm rú làm cho lực lượng của địch trong Chi khu hỗn loạn tháo chạy ra bến sông. Bọn chúng cướp ghe, xuồng của dân, rồi tự bắn vào nhau để tranh giành phương tiện chạy thoát thân. Trong cảnh hỗn loạn này, những tên lính cuối cùng của Đại đội pháo 105 ly trước khi buông súng đầu hàng đã quay súng bắn tên đại úy Tâm cùng các sĩ quan chỉ huy đại đội, cũng như bắn chìm chiếc canô chở bọn chúng.
9 giờ 15 phút ngày 29/4/1975, Chi khu Tân Uyên được hoàn toàn giải phóng. Sau đó, các xã còn lại trong huyện, quần chúng nhân dân kết hợp với lực lượng du kích nổi dậy áp đảo tinh thần địch. Sự kiện này cộng với tin Chi khu huyện lỵ bị thất thủ khiến cho tinh thần quân giặc càng thêm hỗn loạn. Bọn địch ở các đồn bót đều bỏ súng đầu hàng hoặc tìm đường tháo chạy. Khắp nơi trong huyện, nơi nào cũng hừng hực khí thế cách mạng, cùng nhau truy tìm bọn ác ôn đã gây nhiều nợ máu với nhân dân. Trưa ngày 29/4/1975, gần 200 binh lính, sĩ quan của địch đã cởi bỏ quân phục, giày đinh chạy bộ từ Phú Giáo qua Cầu Sông. Du kích xã Tân Hòa, Tân Bình, Bình Mỹ đã chặn bắt sống, tiêu diệt một số tên ngoan cố. Đến chiều ngày 29/4/1975, toàn bộ các xã trong huyện đều được giải phóng. Đồng chí Huỳnh Tư, Tỉnh đội phó tỉnh Thủ Dầu Một - từng là Huyện đội trưởng Tân Uyên, tiếp tục vai trò mở mũi dẫn đường, đưa cánh quân chủ lực - quả đấm thép Quân đoàn 1 với xe tăng, xe thiết giáp tiến quân theo ngõ Bình Chuẩn qua cầu Bình Trị tiến đánh Bộ Tổng tham mưu và cắm cờ tại đây đúng 11 giờ trưa ngày 30/4/1975, góp phần giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.
--------------------------------------------------------------------------------------------
[1] Ban Chấp hành Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam tỉnh Đồng Nai, Lịch sử Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam tỉnh Đồng Nai 1930-1995, tập II, NXB Tổng hợp Đồng Nai, 2000, tr.40-41.
[2] Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Bình Dương, Lịch sử Đảng bộ tỉnh Bình Dương (1930-1975), NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2003, tr.306.
[3] Chỉ từ tháng 5 đến tháng 8/1959, tại Biên Hòa có 5 tên đã phản bội Tổ quốc, phản Đảng: Hà Tư, Hai Giò - Bí thư Chi bộ xã Phú Hữu, Tư Cường (Đoàn Trị) - cán bộ binh vận của tỉnh, Ba Chánh - Trưởng ban Giao liên tỉnh, Mười Lồi - cán bộ Huyện ủy Tân Uyên dẫn địch bắt trên 300 cán bộ, đảng viên, đoàn viên, quần chúng cơ sở cốt cán ở Long Thành, Tân Uyên, Vĩnh Cửu, thị xã Biên Hòa.
[4] Lịch sử Quân giới Nam Bộ và Cực Nam Trung Bộ (1954-1975), NXB Quân đội Nhân dân, Hà Nội, 1998, tr.291.
[5] Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Thủ Dầu Một, tháng 5/1973, tài liệu số 31, lưu trữ tại phòng Lịch sử Đảng, Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Bình Dương.
[6] Chỉ thị 01/CT/74 Trung ương Cục, lưu trữ tại Phòng Lịch sử Đảng, Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Bình Dương.
[7] Chỉ thị về phát triển sản xuất của Khu ủy Miền Đông - Lưu trữ tại phòng Lịch sử Đảng, Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Bình Dương.
[8] Trích Nghị quyết Tỉnh ủy Thủ Dầu Một (10/1974) về “Đánh bại chính sách bình định lấn chiếm mới của Mỹ - ngụy, tiến tới hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân”. Tư liệu số 57/NQ lưu trữ tại Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Bình Dương.
[9] Nghị quyết Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng (tháng 01/1975).
[10] Ban Chấp hành Đảng bộ Thị xã Tân Uyên, Lịch sử Đảng bộ huyện Tân Uyên (1930-1975), NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2016, tr.271.
[11] Ban Chấp hành Đảng bộ Thị xã Tân Uyên, 2016, Sđd, tr.271.
Điện thoại: 0918. 154511 - hoặc: 0977. 120048
Email: vutuantrinh@moet.edu.vn hoặc trinhvt@leloi.sgdbinhduong.edu.vn
Địa chỉ: Số 03, đường Tân Thành 37, khu phố 5, Thị trấn Tân Thành, huyện Bắc Tân Uyên, tỉnh Bình Dương.