1.1. Chi bộ Đảng đầu tiên ra đời
Những năm 1904-1905, ảnh hưởng của phong trào Đông Du, Duy Tân (ở Trung Kỳ) và Đông Kinh Nghĩa Thục (ở Bắc Kỳ) với việc hô hào đẩy mạnh sản xuất, kinh doanh, chấn hưng thực nghiệp, mở trường dạy theo lối mới, cổ động dùng chữ Quốc ngữ,… tác động mạnh đến các địa phương ở Nam Bộ, trong đó, có Thủ Dầu Một và Biên Hòa. Các cuộc vận động giải phóng dân tộc theo trào lưu dân chủ tư sản đầu thế kỷ XX đã tạo nên những sắc thái mới trong phong trào yêu nước chống Pháp ở Thủ Dầu Một nói chung, Tân Uyên nói riêng.
Những năm 1910-1911, ở nhiều tỉnh Nam Bộ bắt đầu hình thành các tổ chức (Hội kín) của nông dân với nhiều tên gọi khác nhau như Thiên Địa hội, Nghĩa Hòa hội, Phục Hưng hội, Ái Quốc hội,… Đến năm 1914, khi Chiến tranh thế giới lần thứ nhất nổ ra, phong trào Hội kín phát triển mạnh ở các tỉnh Gia Định, Chợ Lớn, Bến Tre, Châu Đốc, Biên Hòa, Thủ Dầu Một… và lan rộng đến Tân Uyên.
Mục tiêu ban đầu của phong trào Hội kín là tập hợp nông dân và dân nghèo đấu tranh chống lại cường hào ác bá trong làng, trong tổng, giúp đỡ nhau lúc hoạn nạn, khó khăn… Sau đó, Hội kín nêu thêm mục tiêu đấu tranh chống bắt lính, phản đối việc cướp đoạt, vơ vét của thực dân Pháp để phục vụ chiến tranh. Có lúc khẩu hiệu đấu tranh của phong trào Hội kín được nâng lên thành “phản Pháp phục Nam”. Tư tưởng chủ đạo của Hội kín ở Nam Kỳ là yêu nước và tương thân tương ái, đồng thời, có pha trộn màu sắc của Khổng giáo, Đạo giáo, Phật giáo và một số yếu tố thần bí. Hoạt động chủ yếu của Hội kín là tổ chức huấn luyện võ nghệ và vũ trang gậy gộc, giáo mác cho hội viên, gặp cơ hội thuận lợi thì tấn công các trụ sở mộ lính; phá nhà giam, trừng trị bọn quan lại và hội tề gian ác, lấy của nhà giàu chia cho người nghèo,… Từ năm 1913 trở đi, các làng Tân Hòa, Mỹ Lộc, Mỹ Quới,… ở quận Tân Uyên đều có cơ sở của Hội kín.
Năm 1926, một sự kiện có tiếng vang lớn trên toàn quốc đã tác động mạnh đến phong trào yêu nước của nhân dân Thủ Dầu Một, Biên Hòa nói chung, Tân Uyên nói riêng. Đó là đám tang cụ Phan Châu Trinh mang tầm vóc một quốc tang, với sự tham gia của gần 15 vạn người dân Sài Gòn - Chợ Lớn và các tỉnh lân cận. Nhân dân bày tỏ lòng ngưỡng mộ và tiếc thương đối với nhà chí sĩ đã cống hiến trọn đời mình cho sự nghiệp cứu nước. Đông đảo nhân dân thuộc các thành phần ở các quận Tân Uyên, Châu Thành, Bến Cát, Lái Thiêu,… đã kéo về Sài Gòn dự lễ tang bất chấp sự ngăn cản của nhà cầm quyền. Đám tang và lễ truy điệu cụ Phan Châu Trinh đã trở thành cuộc biểu dương lực lượng hùng hậu của phong trào yêu nước, thúc đẩy các hoạt động chống Pháp ở Tân Uyên.
Đến những năm 20 của thế kỷ XX, đội ngũ công nhân ở vùng Đông Nam Bộ nói chung, Thủ Dầu Một và Biên Hòa nói riêng, ra đời tuy chưa lâu nhưng đã không ngừng đấu tranh cho quyền lợi thiết thân hàng ngày cũng như quyền lợi giai cấp bằng nhiều hình thức từ thấp đến cao, trong đó, nổi bật nhất là công nhân cao su. Đến năm 1930, đội ngũ công nhân cao su của tỉnh Thủ Dầu Một cùng các quận Bà Rá, Tân Uyên, ước tính khoảng 3 vạn người, bao gồm nhiều loại hình nghề nghiệp như: nhân viên kỹ thuật giống, thợ cạo mủ, thợ chế biến mủ, thợ cơ khí,… Ngoài ra, còn có đội ngũ công nhân và thợ thủ công làm việc tại các lò lu, lò chén, lò đường, trại cưa,… Đây chính là lực lượng tạo nên sức mạnh đáng kể có thể đối kháng với bọn tư bản thực dân Pháp xâm lược.
Những năm 20 của thế kỷ XX, nổi lên nhiều cuộc đấu tranh của công nhân có tiếng vang lớn ở vùng Đông Nam Bộ. Trước hết là cuộc đấu tranh của 400 công nhân đềpô xe lửa Dĩ An (tháng 4/1926) đòi chủ nhà máy giải quyết chế độ làm việc 8 giờ/ngày và tăng lương từ 20-40%. Sau đó là cuộc đấu tranh của 500 công nhân ở đồn điền cao su Cam Tiêm (Công Quế) vào tháng 12/1926. Trong tháng 8 và tháng 9/1927, công nhân đồn điền cao su Phú Riềng nhiều lần nổi dậy đấu tranh đòi các quyền lợi kinh tế, giết tên xếp Môngtéclô (Monterlo) và lùng bắt, cảnh cáo những tên cai, xu, sếp gian ác ở phân sở,…
Như vậy, vào những năm đầu thế kỷ XX, phong trào yêu nước ở Tân Uyên đã chịu tác động và ảnh hưởng khá sâu sắc bởi các hoạt động yêu nước và phong trào đấu tranh cách mạng của công nhân, nông dân của các vùng lân cận. Thậm chí, đã có không ít người tại địa phương đã trực tiếp tham gia các hoạt động yêu nước và phong trào đấu tranh trong đội ngũ công nhân cao su. Đó là những yếu tố rất quan trọng tạo nên sức bật mới về “chất” đối với phong trào đấu tranh cách mạng ở Tân Uyên trong những chặng đường tiếp theo.
Ngày 03/02/1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, đáp ứng yêu cầu lãnh đạo cách mạng Việt Nam trong công cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc. Mặt khác, việc thành lập Đảng là bước ngoặt vĩ đại của giai cấp công nhân và nhân dân Việt Nam. Trong thời gian này, tại Thủ Dầu Một, chi bộ Bình Nhâm được thành lập.
Tháng 4/1936, ở Tân Uyên, chi bộ Tân Phước Khánh được thành lập. Sau khi thành lập, chi bộ Tân Phước Khánh lãnh đạo gần 1.000 nông dân địa phương đấu tranh đòi giảm sưu thuế, tự do. Trước sức ép của nhân dân, tỉnh trưởng Thủ Dầu Một phải trực tiếp can thiệp và chấp nhận các yêu sách của người dân. Sự kiện đấu tranh thắng lợi của người dân Tân Phước Khánh đã tác động sâu sắc đến tinh thần của người dân Bắc Tân Uyên nói chung, Tân Hòa, Mỹ Lộc nói riêng.
Hưởng ứng cuộc đấu tranh này, tháng 5/1936, hơn 100 bà con 2 xã Tân Hòa, Mỹ Lộc cùng với hàng trăm người dân Thường Lang, Tân Tịch dùng ghe, xuồng kéo nhau về Biên Hòa đấu tranh đòi giảm thuế thân, thuế môn bài, tự do làm ăn... Với khí thế rầm rộ, khẩu hiệu, biểu ngữ trên tay, sau hơn 4 giờ đấu tranh kiên trì, người dân 4 xã Tân Hòa, Mỹ Lộc, Thường Lang, Tân Tịch đã buộc tỉnh trưởng Biên Hòa phải chấp nhận các yêu sách.
Giữa năm 1936, tranh thủ phe cánh tả lên nắm chính quyền tại Pháp với việc hình thành Mặt trận bình dân, Trung ương Đảng quyết định thành lập Mặt trận dân chủ Đông Dương, tập hợp các lực lượng yêu nước, đấu tranh đòi tự do, dân chủ. Cùng thời gian này, đồng chí Nguyễn Văn Nghĩa - người đảng viên đầu tiên của huyện Tân Uyên - nhận được chỉ thị thành lập Ủy ban trù bị hành động Đông Dương. Đồng chí đã về Tân Uyên gặp các đồng chí Huỳnh Văn Lũy, Phạm Văn Khoa, Phạm Văn Thuận,... để thành lập Ủy ban hành động tỉnh Biên Hòa với mục đích tập hợp dân nguyện, chuẩn bị cho Đông Dương đại hội theo chỉ thị của Đảng.
Để chuẩn bị cho việc thành lập Ủy ban hành động ở các xã, đồng thời, tạo dư luận rộng rãi trong nhân dân, hàng ngàn truyền đơn đã được đồng chí Nghĩa cho in và tổ chức rải khắp vùng Tân Uyên, Bắc Tân Uyên. Tại Tân Hòa, Mỹ Lộc, nhiều bà con đã nhặt được truyền đơn và chuyền nhau đọc, tạo không khí sôi nổi, phấn khởi chờ đón Ủy ban hành động ra đời.
Ngày 19/8/1936, Ủy ban hành động ở làng Uyên Hưng và Tân Uyên được công bố. Sau đó, Ủy ban hành động của làng Tân Hòa và Mỹ Lộc cũng thành lập. Đầu tháng 9/1936, Ủy ban hành động tỉnh Biên Hòa làm lễ ra mắt tại Gò Mô. Hàng trăm bà con 2 xã Tân Hòa, Mỹ Lộc dùng ghe, xuồng vượt sông để tham dự lễ ra mắt này. Tại buổi lễ, đồng chí Nguyễn Văn Nghĩa thay mặt Ủy ban hành động Tỉnh kêu gọi nhân dân cùng đoàn kết, đứng lên đấu tranh đòi thực dân Pháp thực hiện các quyền dân sinh, dân chủ, bãi bỏ thuế thân, tạo điều kiện cho người dân làm ăn…
Tên cai tổng Đạm hay tin, cho binh lính đến đàn áp, cuộc mít tinh đã biến thành cuộc biểu tình chống thực dân Pháp và tay sai, mà trực tiếp là đả đảo Cai tổng Đạm. Hơn 100 bà con Tân Hòa, Mỹ Lộc đã tích cực hưởng ứng cuộc đấu tranh. Trước sức ép của nhân dân, tên Cai tổng buộc phải rút lui. Dưới sự lãnh đạo của Ủy ban hành động, các cuộc đấu tranh của nhân dân 2 xã bước đầu đạt được những kết quả nhất định, phong trào đấu tranh dần đi vào tổ chức và ngày càng quy mô. Vì thế, đòi hỏi phải có sự lãnh đạo thống nhất của một tổ chức Đảng tại địa phương.
Giữa năm năm 1936, đồng chí Trương Văn Bang, nguyên là Bí thư Xứ ủy Nam Bộ được liên Tỉnh ủy miền Đông cử về Biên Hòa lãnh đạo phong trào và xây dựng cơ sở Đảng. Lúc này, đồng chí thường đến các xã Mỹ Lộc, Tân Hòa, Thường Lang, Tân Tịch để vận động nhân dân và xây dựng phong trào, “Ủy ban hành động làng Mỹ Lộc và phong trào dân chủ của vùng này hoạt động rất mạnh, xuất hiện nhiều nhân tố tích cực và được chọn làm điểm để phát triển cơ sở”. Cũng trong khoảng thời gian này, đồng chí Tự ở Phân chi Gia Định sang khu vực Bắc Tân Uyên tuyên truyền, gây dựng phong trào cách mạng ở các xã. Tại đây, đồng chí đã giác ngộ được một số quần chúng tích cực như Lê Văn Tôn (Năm Tôn), Nguyễn Hồng Kỳ (Ba Cờ), Huỳnh Liễng (Ba Liễng), Hai Phiên,… là những thanh niên làng Mỹ Lộc và Trần Văn Quỳ (Chín Quỳ) - người làng Tân Hòa. Được giác ngộ theo lý tưởng của Đảng, một thời gian sau đó, các đồng chí Lê Văn Tôn, Nguyễn Hồng Kỳ, Huỳnh Liễng, Hai Phiên và Trần Văn Quỳ được kết nạp vào Đảng.
Cuối năm 1936, tại khu vực chùa Gò Đá (Mỹ Lộc), Chi bộ cộng sản xã Mỹ Lộc được thành lập gồm các đồng chí: Lê Văn Tôn (Năm Tôn), Huỳnh Liễng, Lê Văn Lành, Trần Văn Quỳ (Chín Quỳ), Nguyễn Hồng Kỳ (Ba Cờ), Hai Phiên, Ký. Đồng chí Lê Văn Tôn được đồng chí Trương Văn Bang - Bí thư Liên Tỉnh ủy Miền Đông - chỉ định làm Bí thư chi bộ. Chi bộ Đảng xã Mỹ Lộc là chi bộ đầu tiên của Bắc Tân Uyên. Chi bộ Đảng xã Mỹ Lộc ra đời đánh dấu một mốc son quan trọng trong phong trào cách mạng của nhân dân Mỹ Lộc nói riêng, Bắc Tân Uyên nói chung. Chi bộ ra đời đã đáp ứng tình hình và nhu cầu lãnh đạo phong trào đấu tranh cách mạng của nhân dân địa phương. Hơn nữa, chi bộ xã Mỹ Lộc được thành lập có ý nghĩa quan trọng đối với Bắc Tân Uyên nói chung và nhân dân các xã Tân Hòa, Lạc An, Thường Lang, Tân Tịch,… nói riêng do các đảng viên trong chi bộ xã Mỹ Lộc thường xuyên đến những xã này vận động và tuyên truyền cách mạng, qua đó, giác ngộ nhiều quần chúng tích cực tham gia hoạt động cách mạng và sau đó trở thành đảng viên. Khu vực chùa Gò Đá là nơi Chi bộ thường xuyên sinh hoạt, hội họp. Ngoài ra, đồng chí Lê Văn Tôn còn liên hệ với các thầy giáo Giang, Khuyên, Đình mượn trường học làm địa điểm tập hợp nhân dân địa phương để tuyên truyền về Đảng.
1.2. Lãnh đạo nhân dân tham gia khởi nghĩa Nam Kỳ
Đầu năm 1937, Tỉnh ủy Biên Hòa lâm thời được thành lập, đồng chí Trương Văn Bang làm Bí Thư và các đồng chí Huỳnh Liễng, Trần Minh Triết, Huỳnh Văn Phan, Lê Văn Tôn, Nguyễn Hồng Kỳ là Ủy viên Ban Chấp hành Tỉnh ủy.
Đến giữa năm 1937, trên địa bàn quận Tân Uyên, tỉnh Biên Hòa đã thành lập được 3 chi bộ cộng sản Tân Hóa Khánh, Mỹ Quới và Mỹ Lộc (thuộc vùng Bắc Tân Uyên). Trong số đảng viên của các chi bộ này, có 3 đồng chí Lê Văn Tôn, Huỳnh Liễng, Nguyễn Hồng Kỳ là Ủy viên Ban Chấp hành Tỉnh ủy Biên Hòa lâm thời và đồng chí Lê Văn Tôn (thuộc chi bộ xã Mỹ Lộc) được Tỉnh ủy phân công lãnh đạo phong trào cách mạng ở quận Tân Uyên. Cơ sở Đảng ở quận Tân Uyên được đánh giá khá mạnh so với các quận thuộc miền Đông Nam Bộ bấy giờ. Đây cũng là địa phương mà phong trào cách mạng luôn có sự tác động qua lại và liên quan với nhau giữa hai tỉnh Biên Hòa và Thủ Dầu Một. Trong đó, công tác xây dựng và tổ chức cơ sở Đảng ở Tân Uyên một số giai đoạn chủ yếu chịu sự chỉ đạo trực tiếp của Đảng bộ tỉnh Biên Hòa hoặc Đảng bộ tỉnh Thủ Dầu Một. Đó là một yếu tố quan trọng bảo đảm cho sự lãnh đạo của Đảng xuyên suốt và liên tục đối với phong trào cách mạng ở Tân Uyên nói chung, Bắc Tân Uyên nói riêng.
Trước sự đấu tranh ngày càng mạnh mẽ của nhân dân ta và nhân dân Pháp, Chính phủ Mặt trận bình dân Pháp cử phái viên Giuýtstanh Gôđa (Justin Godart) thuộc Đảng cấp tiến của Chính phủ Pháp sang điều tra tình hình kinh tế, xã hội ở Đông Dương. Nhân dịp này, Đảng chủ trương tổ chức quần chúng xuống đường biểu dương lực lượng với những khẩu hiệu đòi ân xá tù chính trị, bỏ thuế thân, tự do ngôn luận, tự do nghiệp đoàn,…
Tin tức thời sự chính trị nóng bỏng ở Sài Gòn nhanh chóng lan truyền đến Thủ Dầu Một. Các quan chức địa phương có kế hoạch đón tiếp quan khách chính quốc. Nhân sự kiện này, cán bộ ta đã có kế hoạch vận động quần chúng đón tiếp, đưa yêu sách lên phái viên của Chính phủ Mặt trận bình dân Pháp.
Khi Gôđa đến nhà việc làng Phú Cường (nay là trụ sở Ủy ban nhân dân phường Phú Cường), đã có 200 người tụ tập để gặp phái viên. Ban đại diện đưa yêu sách nhờ Ban hội tề chuyển giao. Họ nêu các khẩu hiệu: “Hoan nghênh Mặt trận bình dân Pháp” và “Tự do nghiệp đoàn”. Ở trụ sở làng Tân Khánh, khi Gôđa đến, đã có hàng trăm nhà nông đón tiếp. Một lão thợ xắt thuốc (thái thuốc lá) thay mặt hàng trăm người trồng thuốc lá đưa đơn cho hương cả để trao lại phái viên. Nội dung gồm những điều: Tự do trồng thuốc lá không phải xin phép nhà cầm quyền, đem bán chỉ nộp thuế một lần với giá 0,25 đồng/kg, không phải nộp thuế cho chủ vựa (chủ kho hàng) và quan làng. Trong những người trực tiếp gặp Gôđa có đồng chí Hồ Văn Cống. Những cuộc “đón tiếp” Gôđa nói trên, thực chất là những cuộc biểu dương lực lượng quần chúng, là dịp để nâng cao trình độ giác ngộ chính trị, rèn luyện ý chí chiến đấu của họ.
Giữa lúc phong trào cách mạng của quần chúng đang diễn ra sôi nổi, Trung ương Đảng họp Hội nghị mở rộng tại xã Tân Thới Nhứt (Bà Điểm) trong hai ngày 13 và 14/3/1937. Hội nghị đã quyết định một số chủ trương về công tác vận động quần chúng và công tác xây dựng tổ chức Đảng trong tình hình mới.
Đầu năm 1938, nguy cơ phát xít và chiến tranh đế quốc càng nổi rõ. Tình hình chính trị ở Pháp phát triển không thuận lợi. Bọn phản động thuộc địa ở Đông Dương thẳng tay khủng bố phong trào cách mạng. Trước tình hình đó, ngày 29 và 30/3/1938, tại xã Tân Thới Nhứt (Bà Điểm), Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp Hội nghị mở rộng lần thứ tư tham dự có các đồng chí Lê Hồng Phong, Nguyễn Văn Cừ, Hà Huy Tập, Võ Văn Tần, Nguyễn Chí Diểu. Hội nghị quyết định lập Mặt trận thống nhất dân chủ Đông Dương và đề ra phương pháp tổ chức quần chúng.
Nhân kỷ niệm ngày Quốc tế Lao động 1/5, Đảng phát động một phong trào đấu tranh sôi nổi trong phạm vi cả nước. Cũng như nhiều nơi ở Việt Nam, lễ kỷ niệm ngày Quốc tế Lao động 01/5/1938 ở Thủ Dầu Một, Biên Hòa đã biến thành những cuộc biểu tình, đấu tranh, biểu dương sức mạnh đoàn kết của nhân dân lao động với quy mô lớn nhất trong thời kỳ vận động dân chủ.
Trong những năm 1936-1939, phong trào đấu tranh cách mạng của nhân dân Biên Hòa, Thủ Dầu Một, trong đó có Bắc Tân Uyên diễn ra sôi nổi và rộng khắp. Qua các cuộc đấu tranh, vai trò của các tổ chức cơ sở Đảng và đảng viên ngày càng được nâng cao. Bước đầu, các tổ chức Đảng và đảng viên đã thành công trong việc tập hợp các tầng lớp nhân dân lao động. Đây là bước tập dượt quan trọng của lực lượng cách mạng để phong trào đấu tranh trong những giai đoạn tiếp theo phát triển mạnh mẽ, quyết liệt hơn.
Đầu tháng 9/1939, chiến tranh thế giới lần thứ hai bùng nổ. Ở Đông Dương, thực dân Pháp ban bố lệnh tổng động viên, ra sức bắt người, cướp của để cung cấp cho chiến tranh đế quốc, đồng thời, đàn áp khốc liệt phong trào cách mạng do Đảng lãnh đạo. Tại Sài Gòn, nhiều lãnh đạo của Đảng bị thực dân Pháp bắt như đồng chí Hà Huy Tập (tháng 5/1938), đồng chí Lê Hồng Phong (tháng 6/1939). Nhiều đồng chí khác và quần chúng cảm tình của Đảng cũng lần lượt bị bắt. Đứng trước tình hình trên, Trung ương Đảng đã kịp thời chỉ thị cho các cơ quan và cán bộ hoạt động hợp pháp và nửa hợp pháp phải mau lẹ rút vào bí mật, phát triển mạnh mẽ lực lượng cách mạng ở cả nông thôn và thành thị.
Tiếp đó, từ ngày 06 đến ngày 08/11/1939, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp Hội nghị lần thứ sáu tại ấp Tây Bắc Lân, xã Tân Thới Nhứt (Bà Điểm), huyện Hóc Môn, tỉnh Gia Định do Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ chủ trì. Hội nghị vạch rõ chiến tranh đế quốc sẽ tạo ra thời cơ cho cuộc cách mạng ở Đông Dương bùng nổ, nhiệm vụ của Đảng là phải chuẩn bị sẵn sàng cho cuộc bạo động giành chính quyền khi thời cơ đến. Hội nghị lần thứ 6 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã mở ra một thời kỳ mới cho cách mạng Việt Nam.
Ở Biên Hòa, tên chánh tham biện tỉnh cũng ra hàng loạt quy định cấm mọi hoạt động có tính chất chính trị mà chúng cho là có liên hệ với cộng sản. Những tổ chức dân chủ của quần chúng như đại lý báo Dân Chúng, Tổ Đọc báo, Hội Ái hữu, Tương tế,… cũng bị giải tán.
Đến cuối năm 1939, thực dân Pháp tiến hành khủng bố trắng, bắt nhiều cán bộ của Đảng giam ở các nhà tù trong và ngoài tỉnh. Ngoài khám đường Biên Hòa đã có từ trước, địch còn lập ra các trại tập trung Bà Rá, Tà Lài để giam giữ những cán bộ, đảng viên cộng sản và những người yêu nước chống phát xít ở Nam Bộ.
Thực hiện chủ trương của Trung ương Đảng và Xứ ủy Nam Bộ về chuyển hướng công tác tổ chức và đấu tranh cho phù hợp với tình hình mới, từ cuối năm 1939, Tỉnh ủy Biên Hòa đưa các tổ chức, cán bộ hoạt động công khai vào bí mật, chủ yếu hoạt động dưới hình thức bán hợp pháp và bí mật. Các đồng chí Nguyễn Văn Nghĩa, Phạm Văn Khoai, Phạm Văn Thuận, Hồ Văn Đại,… tạm lánh về các địa phương khác để tránh địch khủng bố, bắt bớ, tiếp tục hoạt động cách mạng. Các đồng chí trong Tỉnh ủy lâm thời như Lê Văn Tôn, Huỳnh Văn Phan, Huỳnh Liễng, Nguyễn Hồng Kỳ, Trần Minh Triết,… rút vào hoạt động bí mật ở khu rừng thuộc Bắc Tân Uyên. Tại đây, các đồng chí đã xây dựng được một đội võ trang 35 người do đồng chí Huỳnh Liễng chỉ huy. Lực lượng này chính là tiền thân của lực lượng vũ trang tỉnh Biên Hòa sau này.
Tháng 7/1940, Xứ ủy Nam Bộ triệu tập Hội nghị mở rộng tại xã Tân Hương, huyện Châu Thành, tỉnh Mỹ Tho. Sau nhiều ngày thảo luận, Hội nghị đi đến nhất trí thông qua chủ trương, kế hoạch khởi nghĩa và thành lập ban quân sự các cấp. Hội nghị cũng đã bầu ra Xứ ủy mới do đồng chí Tạ Uyên làm Bí thư và cử đồng chí Phan Đăng Lưu ra Bắc dự Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 7 (tháng 11/1940) và xin chỉ thị của Trung ương về chủ trương khởi nghĩa.
Tháng 9/1940, Xứ ủy tiếp tục mở hội nghị tại xã Tán Xuân (Hóc Môn - Gia Định) để quyết định một số vấn đề về công tác trọng yếu, trao cho Thường vụ Xứ ủy quyền ra lệnh khởi nghĩa, quyết định mẫu cờ là nền đỏ, ở giữa có ngôi sao vàng năm cánh.
Ngày 20/11/1940, lệnh khởi nghĩa được gửi đi các nơi, quyết định toàn Xứ khởi nghĩa vào đêm 22/11/1940. Trong khi đó, sau khi dự Hội nghị lần thứ 7 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, đồng chí Phan Đăng Lưu mang chỉ thị của Trung ương hoãn cuộc khởi nghĩa vừa về đến Sài Gòn, thì lệnh khởi nghĩa của Thường vụ Xứ ủy đã ban hành xuống tận cơ sở không thể hoãn được nữa.
Ở Biên Hòa, công tác chuẩn bị khởi nghĩa được tiến hành khẩn trương, sôi nổi, nhất là ở một số nơi thuộc Tân Uyên và Châu Thành. Các đồng chí trong Tỉnh ủy và một số đảng viên về các huyện, xã chỉ đạo các chi bộ, cơ sở cốt cán ở địa phương chuẩn bị lực lượng phát động quần chúng khởi nghĩa.
Nhân dân Tân Uyên được tin sẽ khởi nghĩa vô cùng phấn khởi. Khắp nơi hừng hực khí thế chiến đấu tiêu diệt thực dân Pháp và tay sai bán nước. Thanh niên nhiều nơi rủ nhau chuẩn bị khí giới. Quận Tân Uyên được Tỉnh ủy Biên Hòa chọn làm trọng điểm cho cuộc khởi nghĩa sắp tới. Theo sự chỉ đạo của Ban khởi nghĩa, các đồng chí Lê Văn Tôn, Huỳnh Liễng, Nguyễn Hồng Kỳ và hai chi bộ Mỹ Lộc, Mỹ Quới (Bạch Đằng) đã làm công tác chuẩn bị từ tháng 8/1940.
Phương án khởi nghĩa được xác định chủ yếu tại hai vùng: Phía Nam lấy thị trấn Uyên Hưng làm trọng điểm, phía Bắc lấy làng Mỹ Lộc, Tân Hòa, Tân Tịch, Thường Lang, Lạc An làm điểm hỗ trợ. Lực lượng nổi dậy bao gồm quần chúng Hội phản đế Nông dân, Thanh niên và đội vũ trang khoảng 35 người với vài khẩu súng trường, súng săn, giáo mác, gậy tầm vông. Lực lượng này do đồng chí Huỳnh Liễng chỉ đạo và đồng chí Trần Văn Quỳ chỉ huy.
Ngày 23/11/1940, địch ban hành lệnh giới nghiêm ở thị trấn Uyên Hưng, số binh lính tích cực hứa làm nội ứng để cùng quân khởi nghĩa cướp đồn đã bị cấm trại. Do đó, mũi binh vận không thành, đơn vị vũ trang rút lui để làm nhiệm vụ bảo vệ nổi dậy ở nông thôn. Vì vậy, phong trào cách mạng ở phía Nam Tân Uyên không phát triển được. Trong khi đó, ở Bắc Tân Uyên nhờ có vị trí hiểm trở của rừng rậm và xa cách đồn lính quận, tỉnh nên cuộc nổi dậy trọn ngày đêm. Ở các làng Mỹ Lộc, Tân Tịch, Tân Hòa, Thường Lang, Lạc An, nhân dân đêm đêm thổi tù và, đánh mõ tre, đánh trống uy hiếp bọn hội tề.
Sau khi cuộc Khởi nghĩa Nam Kỳ nổ ra, thực dân Pháp thực hiện chính sách đàn áp tàn bạo đối với cuộc khởi nghĩa. Ngày 24/11, theo lệnh của tỉnh trưởng Biên Hòa, quận trưởng Tân Uyên đã điều hàng trăm quân lính đi bằng xe quân sự đến vùng khởi nghĩa 5 làng và gây nợ máu đối với đồng bào. Chúng cho quân đội tàn sát 11 người ở cầu Ông Hựu, làng Tân Hòa. Ngoài ra, còn có 30 người ở các nơi khác trong quận bị thương, bị giết, bị bắt đày ra Côn Đảo.
Cuộc Khởi nghĩa Nam Kỳ thất bại vì nổ ra không đúng thời điểm, điều kiện khởi nghĩa chưa chín muồi. Tuy nhiên, cuộc khởi nghĩa đã nêu cao tinh thần quyết chống đế quốc để giành độc lập, tự do, nêu cao khí thế cách mạng của nhân dân Nam Bộ dưới sự lãnh đạo của Đảng. Cùng với các cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn, Đô Lương, Khởi nghĩa Nam Kỳ đã gây ảnh hưởng rộng lớn, khích động tinh thần yêu nước của đồng bào cả nước, là bước chuẩn bị cho cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945. Khởi nghĩa Nam Kỳ cũng để lại những bài học xương máu về nắm thời cơ khởi nghĩa, về sự phối hợp đồng bộ giữa địa phương và cả nước, giữa thành phố Sài Gòn và các tỉnh, giữa phát động quần chúng nhân dân nổi dậy với vận động binh lính quay súng chống lại quân thù, về tinh thần cảnh giác cách mạng… Đó là những kinh nghiệm quý báu cho các giai đoạn cách mạng tiếp theo.
1.3. Cùng nhân dân tỉnh Biên Hòa, Thủ Dầu Một đấu tranh chống phát xít Nhật và Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong Cách mạng tháng Tám năm 1945
Từ sau Khởi nghĩa Nam Kỳ, tình hình Đông Dương và nước ta có nhiều thay đổi. Phát xít Nhật nhảy vào Đông Dương. Thực dân Pháp phải chấp nhận cho phát xít Nhật chiếm đóng Việt Nam. Từ đây, nhân dân ta chịu cảnh “một cổ hai tròng”, bị ách thống trị của Pháp và Nhật, cuộc sống vô cùng cơ cực.
Vừa đặt chân đến Thủ Dầu Một, quân Nhật bắt bớ, giết chóc, hãm hiếp, cướp giật một cách trắng trợn. Ngoài ra, chúng còn cưỡng bức nhân dân nhổ lúa để trồng đay; vơ vét, thu mua lương thực, thực phẩm với giá rẻ mạt,… Mặt khác, chúng bắt đồng bào ta hàng ngày phải đi đắp đường, đào hào giao thông, xây dựng kho tàng, sân bay quân sự dưới làn roi, báng súng, lưỡi lê rất tàn nhẫn. Sự bóc lột, vơ vét của phát xít Nhật làm cho đời sống của nhân dân Thủ Dầu Một, trong đó có nhân dân Bắc Tân Uyên vốn đã khổ cực, nay càng thêm khốn đốn. Vải vóc không có, nhiều người dân phải lấy bao bố may quần áo, dầu lửa, diêm quẹt không có phải dùng đá đánh lửa. Mọi hàng hóa đều khan hiếm, không khí xã hội ngày càng ngột ngạt. Để lừa mị nhân dân, phát xít Nhật ra sức tuyên truyền thuyết “Đại Đông Á”, thuyết “Đồng văn đồng chủng”, lôi kéo một số công chức, lãnh tụ tôn giáo ở địa phương làm tay sai cho chúng.
Để tranh giành ảnh hưởng với phát xít Nhật, thực dân Pháp cũng tuyên truyền thuyết “Cần lao - Gia đình - Tổ quốc”, “Pháp - Việt phục hưng”, “Khỏe để phục sự”,… và đẩy mạnh các hoạt động văn nghệ, thể dục thể thao để hướng thanh niên vào con đường vui chơi, lãng quên nỗi nhục mất nước, làm suy giảm ý chí đấu tranh, tinh thần cách mạng của nhân dân ta. Hai kẻ thù này tuy có nhiều mâu thuẫn với nhau, nhưng đều thống nhất một âm mưu thâm hiểm là tập trung lực lượng đánh phá phong trào cách mạng Việt Nam, giam hãm dân tộc ta trong vòng nô lệ.
Giữa lúc phong trào cách mạng ở Nam Bộ cũng như trong nước gặp khó khăn thì đồng chí Nguyễn Ái Quốc trở về nước, trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Tháng 5/1941, Người chủ trì Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 8 tại Pắc Bó (huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng). Hội nghị đã phát triển và hoàn chỉnh các nghị quyết của Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 6 và Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 7 về vấn đề giải phóng dân tộc. Hội nghị xác định nhiệm vụ chủ yếu trước mắt của cách mạng Việt Nam là giải phóng dân tộc, chủ trương lập Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh (gọi tắt là Mặt trận Việt Minh) thay cho Mặt trận dân tộc thống nhất phản đế Đông Dương.
Cuối năm 1942, Chiến tranh thế giới lần thứ hai có nhiều chuyển biến thuận lợi cho quân Đồng minh. Quân đội Xô viết giành nhiều thắng lợi và đang phản công trên khắp các mặt trận. Ở Đông Dương, phát xít Nhật ngày càng lấn Pháp, nắm quyền kiểm soát hầu hết các đầu mối quân sự - kinh tế quan trọng. Trong khi đó, thực dân Pháp ở thuộc địa phân hóa thành hai phái: Phái Pêtanh (Pétain) đầu hàng phát xít Đức và phái Đờgôn (De Gaulle) kháng chiến chống phát xít.
Từ giữa năm 1943, các đồng chí Phạm Văn Búng, Nguyễn Văn Nghĩa, Phạm Văn Khoai, Lê Thái, Hồ Văn Giàu, Nguyễn Văn Ký, Hồ Hòa, Huỳnh Văn Lũy, Hồ Văn Đại, Phạm Văn Thuận,... móc nối liên lạc với nhau, bước đầu hình thành các nhóm, tổ chức Việt Minh ở một số địa phương thuộc Tân Uyên, Châu Thành,...
Tại Thủ Dầu Một, tháng 11/1943, đồng chí Văn Công Khai được đại diện Liên Tỉnh ủy miền Đông truyền đạt lại những nội dung chủ yếu của hội nghị thành lập Xứ ủy Nam Bộ tháng 10/1943. Trong đó có chủ trương phát triển thực lực cách mạng theo chương trình Mặt trận Việt Minh để chuẩn bị khởi nghĩa giành chính quyền. Từ đây, chương trình Mặt trận Việt Minh, Điều lệ và Tuyên ngôn của Việt Minh dần thâm nhập vào Đảng bộ và quần chúng Thủ Dầu Một, Tân Uyên.
Đầu năm 1944, Tỉnh ủy Thủ Dầu Một tổ chức một cuộc hội nghị bàn về những nhiệm vụ trong thời gian tới. Chủ trì Hội nghị là đồng chí Văn Công Khai, Bí thư Tỉnh ủy. Hội nghị đã bàn những biện pháp thực hiện Nghị quyết của Xứ ủy và tổ chức các Hội cứu quốc trong nông dân, công nhân, thanh niên, phụ nữ.
Đối với Bắc Tân Uyên, từ năm 1941-1944, Chi bộ Mỹ Lộc do đồng chí Trần Văn Quỳ phụ trách, vẫn bám rừng sâu để hoạt động vô cùng gian khổ và nguy hiểm. Giặc Pháp ra lệnh cấm dân tiếp tế cho đơn vị, bao vây và truy lùng vào tận căn cứ Hóc Bà Sầm. Giữa ta và địch đã nhiều lần nổ súng đánh nhau. Phát xít Nhật cũng cho tay sai đến tìm cách mua chuộc người chỉ huy theo chúng chống Pháp. Tuy nhiên, đồng chí Trần Văn Quỳ và các chiến sĩ đã trả lời bằng hành động đánh vào nhà tên tay sai của Nhật để cảnh cáo. Ta thu được một khẩu súng săn và nhiều tiền. Số tiền thu được, các đồng chí dành một phần giúp dân nghèo theo cách mạng và số còn lại để phục vụ đơn vị tiếp tục chiến đấu.
Từ tháng 7/1944, nhiều nơi như Lái Thiêu, Thủ Dầu Một, Bến Cát, Tân Uyên và các làng dấy lên hoạt động của Hội truyền bá chữ Quốc ngữ do một số giáo chức yêu nước tổ chức. Các chi bộ Đảng một mặt ủng hộ mạnh mẽ hoạt động của Hội, mặt khác nhân cơ hội này đẩy mạnh công tác vận động trí thức và các tầng lớp trung lưu tham gia chống lại âm mưu của Nhật, Pháp dùng văn hóa đồi trụy để trụy lạc hóa thanh niên. Hoạt động của Hội truyền bá Quốc ngữ ở Tân Uyên ngay từ đầu đã được xác định mục đích là giải quyết nạn mù chữ, giúp cho đồng bào nghèo đều biết đọc, biết viết tiếng Việt, mở rộng dân trí, phổ biến kiến thức phổ thông về vệ sinh, y tế, lịch sử, địa lý, nâng cao tinh thần yêu nước chống giặc ngoại xâm và kêu gọi đồng bào tham gia công tác cứu quốc chuẩn bị khởi nghĩa.
Trên thế giới, từ năm 1944 đến đầu năm 1945, tại chiến trường châu Âu, quân đội Xô viết đã giành được thắng lợi quyết định bằng hàng loạt đòn phản công chiến lược, tấn công đến cửa ngõ sào huyệt phát xít Đức. Ở mặt trận châu Á - Thái Bình Dương, sự thống trị của phát xít Nhật cũng đang lung lay tận gốc.
Trong nước, tháng 8/1944, theo chủ trương của Đảng, Tổng bộ Việt Minh kêu gọi và phát động phong trào “sắm vũ khí, đuổi thù chung”, xây dựng lực lượng vũ trang, xây dựng căn cứ địa và chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang, đồng thời, phong trào đấu tranh chính trị của quần chúng ở nông thôn và thành thị cũng dâng cao. Trên phạm vi cả nước, không khí cách mạng sôi sục khắp nơi.
Cuối năm 1944 - đầu năm 1945, quân Nhật ở vùng Thái Bình Dương bị quân Anh, Mỹ tấn công dồn dập. Để trừ mối hậu họa bị quân Pháp đánh sau lưng khi quân Đồng minh tiến vào Đông Dương, Nhật tiến hành đảo chính hất cẳng Pháp, độc chiếm Đông Dương. Đêm 09/3/1945, Nhật tấn công Pháp. Chưa đầy 2 giờ sau, phần lớn lực lượng vũ trang của Pháp đã bị tiêu diệt hoặc bị bắt làm tù binh.
Trước đó, Đảng đã dự đoán cuộc đảo chính Nhật - Pháp sẽ nổ ra: “Nhật sửa soạn truất quyền Pháp ngày một gấp”[1], “cả hai quân thù Nhật - Pháp… đều đang sửa soạn tiến tới chỗ tao sống mày chết, quyết liệt cùng nhau”[2]. Do vậy, ngày 09/3/1945, Hội nghị mở rộng Ban Thường vụ Trung ương Đảng tại làng Đình Bảng, Từ Sơn, Bắc Ninh nhận định, cuộc đảo chính sẽ tạo ra một tình thế khủng hoảng chính trị sâu sắc làm cho những điều kiện của cuộc tổng khởi nghĩa chín muồi nhanh chóng. Hội nghị chủ trương nêu khẩu hiệu “đánh đuổi phát xít Nhật” thay cho khẩu hiệu “đánh đuổi Nhật - Pháp” và phát động cao trào chống Nhật cứu nước mạnh mẽ, gấp rút tiến tới tổng khởi nghĩa giành chính quyền.
Từ cuối tháng 3/1945, cách mạng Việt Nam đã chuyển lên cao trào và hàng loạt cuộc khởi nghĩa từng phần nổ ra ở nhiều địa phương miền Bắc, các căn cứ địa cách mạng được thành lập. Tại Nam Bộ nhiều đồng chí cán bộ, đảng viên bị giặc bắt đã thoát khỏi nhà tù trở về các địa phương, kết nối với các đồng chí ở địa phương, nhanh chóng khôi phục tổ chức Đảng, khôi phục phong trào. Sau ngày Nhật đảo chính Pháp, nhiều đồng chí đảng viên cộng sản các nơi đã được cử về Biên Hòa, Thủ Dầu Một hoạt động. Một số đảng viên phá trại giam Bà Rá về đây cũng nhanh chóng móc nối với phong trào. Tất cả các nhóm đều ra sức phát triển tổ chức, mở rộng cơ sở, ráo riết chuẩn bị tổng khởi nghĩa.
Tháng 5/1945, dưới sự lãnh đạo của Xứ ủy Nam Bộ do đồng chí Trần Văn Giàu làm Bí thư, tổ chức Thanh niên Tiền phong được thành lập tại Sài Gòn do bác sĩ Phạm Ngọc Thạch, đảng viên Đảng Cộng sản làm Thủ lĩnh. Trong vòng 2 tháng vận động và tổ chức, với sự tích cực hoạt động của cán bộ, đảng viên, đoàn viên công đoàn, đội ngũ Thanh niên Tiền phong đã phát triển nhanh chóng hầu hết các tỉnh Nam Bộ, thu hút hàng triệu người yêu nước tham gia.
Ở tỉnh Biên Hòa, tổ chức Thanh niên Tiền phong được thành lập do Huỳnh Văn Nghệ làm Thủ lĩnh đã tập hợp đông đảo quần chúng tham gia, tạo nên một khí thế cách mạng sôi nổi trong các tầng lớp nhân dân ở thành thị, nông thôn. Hòa cùng khí thế chung của toàn tỉnh lúc bấy giờ, tổ chức Thanh niên Tiền phong quận Tân Uyên hoạt động rất sôi nổi. Khắp 32 xã đều tổ chức học tập quân sự, tuần tra bảo vệ xóm làng và chỗ nào cũng vang lên những bài ca cách mạng.
Để kịp thời lãnh đạo, tổ chức quần chúng đứng lên khởi nghĩa giành chính quyền, Liên Tỉnh ủy miền Đông triệu tập Hội nghị vào tháng 5/1945 tại ấp Vĩnh Cửu, Tam Hiệp, Biên Hòa để phổ biến tình hình và nhiệm vụ của cách mạng. Tiếp đó, tháng 7/1945, tại chùa Tân Mai, đồng chí Hà Huy Giáp, đại diện Xứ ủy Nam Bộ đã họp với các đồng chí Hoàng Minh Châu, Huỳnh Văn Hớn, Phạm Văn Búng, Đặng Nguyên, phổ biến chủ trương của Xứ ủy là gấp rút xây dựng, phát triển lực lượng cách mạng để chuẩn bị khởi nghĩa giành chính quyền.
Ngày 15/8/1945, Nhật hoàng tuyên bố đầu hàng quân Đồng minh vô điều kiện. Tin Nhật đầu hàng được lan truyền nhanh chóng, đã thổi bùng ngọn lửa cách mạng. Một không khí khởi nghĩa sôi động khắp thành thị và nông thôn. Từ ngày 13-15/8/1945, Hội nghị toàn quốc của Đảng họp ở Tân Trào, chủ trương lãnh đạo toàn dân Tổng khởi nghĩa giành chính quyền. Ngay trong đêm 13/8/1945, Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc đã gửi bản Quân lệnh số 1, chỉ thị cho đồng bào và chiến sĩ cả nước nhanh chóng vùng dậy giành quyền độc lập. Tiếp sau Hội nghị toàn quốc của Đảng, Đại hội quốc dân họp ngày 16/8/1945 đã thông qua “Mười chính sách lớn của Việt Minh”, thông qua “Lệnh tổng khởi nghĩa”, quyết định Quốc kỳ nền đỏ sao vàng, chọn bài “Tiến quân ca” làm Quốc ca và bầu Ủy ban dân tộc giải phóng Trung ương tức Chính phủ lâm thời do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch.
Ngay sau Hội nghị toàn quốc của Đảng và Đại hội quốc dân, Đảng Cộng sản Đông Dương và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra lời hiệu triệu đồng bào và chiến sĩ cả nước nổi dậy giành chính quyền. Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi: “Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”[3].
Trong bối cảnh ấy, từ ngày 17 đến ngày 20/8, Xứ ủy Nam Bộ họp Hội nghị mở rộng tại Chợ Đệm do đồng chí Trần Văn Giàu chủ trì, có đủ đại diện của các Tỉnh ủy và Thành ủy Sài Gòn tham dự. Hội nghị quyết định đưa Việt Minh ra công khai, quyết định ngày 23/8 tổ chức khởi nghĩa thí điểm ở Tân An và những công việc cấp bách sau khi giành được chính quyền.
Ngày 23/8/1945 tại căn nhà số 2 dãy phố Sáu Sử (quốc lộ 1 Biên Hòa), đồng chí Hoàng Minh Châu chủ trì cuộc họp bàn kế hoạch khởi nghĩa giành chính quyền tại tỉnh lỵ Biên Hòa. Hội nghị quyết định thành lập Ủy ban khởi nghĩa, cử đồng chí Hoàng Minh Châu làm Chủ tịch, dự kiến danh sách Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời và quyết định tiến hành cuộc khởi nghĩa trước ở trung tâm tỉnh lỵ. Hội nghị còn đề ra một số công tác quan trọng và cấp bách.
Từ khi Nhật Hoàng tuyên bố đầu hàng Đồng minh, gần một đại đội lính Nhật đóng tại Tân Uyên rơi vào tình trạng tinh thần hoang mang cực độ. Ở các bót Rạch Tre, Bến Sắn, lính Nhật không dám đi chợ lẻ tẻ như trước. Lợi dụng tình hình đó, nhân dân ở Tân Bình, Phước Hòa đã vào các kho ở sở Phước Hòa lấy lương thực, thuốc men.
Sau khi Ủy ban khởi nghĩa của tỉnh Biên Hòa được thành lập, ở khắp các quận, Ủy ban khởi nghĩa cũng được thành lập. Tại Tân Uyên, Ủy ban khởi nghĩa do đồng chí Tô Văn Trước làm Chủ tịch. Quận cũng thành lập một đội cảm tử quân gồm 14 đội viên, do đồng chí Tiệm chỉ huy.
Trước khí thế cách mạng của nhân dân và do đã vận động được một số người trong bộ máy chính quyền của địch, sáng sớm ngày 24/8/1945, cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền ở Tân Uyên đã hoàn toàn thắng lợi. Theo lệnh của Ủy ban khởi nghĩa, gần 200 Thanh niên Tiền phong được trang bị vũ khí đổ về tham gia giành chính quyền tại tỉnh lỵ Biên Hòa.
Sáng ngày 26/8/1945, đồng chí Nguyễn Văn Nghĩa đã tập hợp hàng trăm quần chúng tiến thẳng vào Tòa bố Biên Hòa, treo lá cờ đỏ sao vàng đầu tiên tại dinh Tỉnh trưởng. Đông đảo đồng bào tập trung trước Tòa bố reo hò vang dậy. Đến 11 giờ trưa, các đồng chí Hoàng Minh Châu, Huỳnh Văn Hớn và một số đồng chí trong Ủy ban khởi nghĩa đến Tòa bố buộc Tỉnh trưởng Nguyễn Văn Quý cùng các viên chức đứng đầu các công sở trong tỉnh bàn giao chính quyền cho cách mạng.
Sáng sớm ngày 27/8/1945, tại quảng trường Sông Phố, một cuộc mít tinh lớn được tổ chức. Gần một vạn người khắp các quận về tham dự. Tại cuộc mít tinh, đồng chí Hoàng Minh Châu, Chủ tịch Ủy ban khởi nghĩa đọc diễn văn tuyên bố chính quyền về tay nhân dân và công bố thành phần Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời tỉnh Biên Hòa. Cũng trong ngày 27/8/1945, một cuộc mít tinh lớn mừng thắng lợi được tổ chức tại sân vận động Tân Uyên. Nhân dân khắp nơi trong quận với băng cờ, khẩu hiệu tập kết dự mít tinh chào đón chính quyền cách mạng ra đời.
Ủy ban kháng chiến lâm thời quận Tân Uyên do đồng chí Tô Văn Trước làm Chủ tịch đã ra mắt nhân dân. Cuộc mít tinh biến thành cuộc tuần hành tỏa về các ngã đường trong quận. Nhân dân ta đi trong niềm sung sướng là người dân của một nước độc lập, tự do. Cuộc Tổng khởi nghĩa tháng 8-1945 thành công ở Tân Uyên đã chấm dứt hơn 80 năm dài sống trong nô lệ, xiềng xích dưới chế độ thực dân, phong kiến, mở ra một thời kỳ mới đối với người dân Tân Uyên nói chung, Bắc Tân Uyên nói riêng.
2.1. Bắc Tân Uyên sau Cách mạng tháng Tám năm 1945
Nhiệm vụ trước mắt của địa phương trong những ngày đầu sau khi giành được chính quyền là bảo đảm ổn định tự trị an, đồng thời, gấp rút xây dựng bộ máy chính quyền từ quận đến cơ sở; củng cố tổ chức Đảng và các tổ chức cách mạng, lực lượng tự vệ để bảo vệ thành quả cách mạng đã giành được. Tháng 10/1945[4], Hội nghị cán bộ toàn tỉnh Biên Hòa được triệu tập tại nhà Hội thuộc xã Bình Trước, quận Châu Thành, do đồng chí Hà Huy Giáp thay mặt Xứ ủy Nam Bộ chủ trì. Hội nghị đã bầu Ban Chấp hành Tỉnh ủy lâm thời gồm 11 đồng chí và đề ra những nhiệm vụ trước mắt của chính quyền cách mạng.
Sau Hội nghị tháng 10/1945, Tỉnh ủy triển khai thành lập các Quận ủy Tân Uyên, Châu Thành, Long Thành và tiến hành các công việc chuẩn bị kháng chiến.
Ban Chấp hành Quận ủy Tân Uyên lúc này gồm các đồng chí: Lê Thái (Năm Thái) làm Bí thư. Nguyễn Văn Thăng (Bảy Thăng) làm Phó Bí thư. Các đồng chí: Tư Lũy, Tư Uyên, Ba Ngàn là Ủy viên Ban Chấp hành.
Về mặt chính quyền, đồng chí Tô Văn Trước được chỉ định làm Chủ tịch Ủy ban nhân dân Quận đầu tiên sau khi giành được chính quyền ở Tân Uyên. Gần một tháng sau, đồng chí Tô Văn Lạc (em đồng chí Tô Văn Của) lên thay đồng chí Tô Văn Trước. Nhằm tiếp tục củng cố tổ chức, ổn định công việc, huy động lực lượng tiến hành kháng chiến, Quận ủy Tân Uyên tổ chức bầu cử chức Chủ tịch Ủy ban nhân dân Quận. Kết quả, đồng chí Nguyễn Văn Trị trúng cử.
Nhằm khắc phục những khó khăn về mặt tài chính trong những ngày đầu độc lập, ngày 04/9/1945, Chính phủ nước Việt Nam mới ra sắc lệnh xây dựng “Quỹ độc lập” và ngày 17/9/1945, tổ chức “Tuần lễ vàng”. Sau “Quỹ độc lập”, “Tuần lễ vàng” là phong trào “Hũ gạo tiết kiệm”, “Quyên góp đồ đồng” để đúc vũ khí… Ngày 25/11/1945, Trung ương Đảng ra chỉ thị “Kháng chiến, kiến quốc” xác định nhiệm vụ chiến lược của cách mạng lúc này “vẫn là cuộc cách mạng dân tộc giải phóng”, những nhiệm vụ cấp bách trước mắt là củng cố chính quyền cách mạng, chống thực dân Pháp xâm lược, bài trừ nội phản, cải thiện đời sống nhân dân. Thực hiện chủ trương này, nhằm xây dựng và tăng cường củng cố chính quyền từ Trung ương đến cơ sở, Đảng và Chính phủ chủ trương tiến hành Tổng tuyển cử trong cả nước vào ngày 06/01/1946, bầu Quốc hội để lập ra Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Tại Biên Hòa, cử tri trong tỉnh (trừ xã Bình Trước do địch kiểm soát) đã nô nức tham gia cuộc bầu cử Quốc hội khóa đầu tiên. Các đồng chí Phạm Văn Búng, Hoàng Minh Châu, Điểu Xiển đã đắc cử đại biểu Quốc hội đầu tiên của tỉnh.
Từ những ngày đầu của chính quyền cách mạng, với lòng tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng và Hồ Chủ tịch, nhân dân các xã thuộc Bắc Tân Uyên đã tích cực tham gia bầu cử Quốc hội, thực hiện phong trào “Hũ gạo tiết kiệm” nhằm chống “giặc đói”. Ngoài ra, phong trào chống “giặc dốt” cũng phát triển rầm rộ. Khắp các xã đều nghe bà con học đánh vần. Mặc dù người dân còn ít chữ, cuộc sống còn nhiều thiếu thốn, nhưng phong trào xóa mù chữ đã giúp người dân biết sống có văn hóa, có nhân cách của một công dân vừa được làm chủ vận mệnh của mình.
Do tình hình bộ máy kháng chiến ngày càng tập trung, các cơ quan quân - dân - chính - đảng tập trung về khu căn cứ ngày càng nhiều, đòi hỏi cần có một số biện pháp tài chính khác, linh hoạt, phong phú hơn để cùng giải quyết vấn đề. Trước yêu cầu như vậy, Quận ủy chủ trương mở rộng các mối quan hệ với các khu vực trong vùng, quan hệ với miền Tây để tìm nguồn cung ứng lương thực, thực phẩm. Được sự chỉ đạo của Quận ủy, dân công các xã vùng Bắc Tân Uyên xuống Kinh Ba (Long An) chở gạo, khô, mắm cùng các loại thực phẩm khác. Mỗi lần đi khoảng vài trăm người, phải len lỏi qua các đồn bót địch. Mỗi chuyến có khi phải mất tới 35-40 ngày mới về tới nơi.
Chỉ trong một thời gian ngắn sau khi giành được chính quyền, thực hiện chủ trương của Đảng bộ tỉnh Biên Hòa, chi bộ, chính quyền và các tổ chức đoàn thể quần chúng ở Bắc Tân Uyên đã nhanh chóng được xây dựng, củng cố để cùng toàn dân trong quận bước vào giai đoạn cách mạng mới.
2.2. Góp phần thành lập Chiến khu, thực hiện “tiêu thổ kháng chiến”, đánh địch tại chỗ (1945-1946)
2.2.1. Góp phần thành lập Chiến khu Đ
Sau khi đánh chiếm Sài Gòn ngày 23/9/1945, âm mưu tiếp theo của thực dân Pháp là tăng cường lực lượng chuẩn bị đánh chiếm các tỉnh Nam Bộ. Do tương quan lực lượng không cân sức, các đơn vị kháng chiến của ta dần rút ra ngoại vi Sài Gòn để bảo toàn, củng cố, tiếp tục kháng chiến. Bắc Tân Uyên với ưu thế về vị trí địa lý trở thành hướng rút quân thuận lợi cho nhiều đơn vị vũ trang từ các nơi, trước hết là vùng phụ cận Sài Gòn trên hướng Bắc và Đông Bắc.
Ngay trong đêm 22/10/1945, hay tin quân Anh chuẩn bị đánh lên Biên Hòa, Ủy ban kháng chiến miền Đông rút ra Xuân Lộc rồi Phan Thiết. Một bộ phận lực lượng vũ trang gồm 40 người và 30 súng trường do đồng chí Huỳnh Văn Nghệ chỉ huy kéo về vùng Tân Tịch, Đất Cuốc, dựa vào rừng quê hương làm căn cứ xây dựng lực lượng chống Pháp.
Tại quận Tân Uyên, tiểu đội vũ trang do đồng chí Trần Văn Quỳ phụ trách, bộ phận Ủy ban kháng chiến Quận của đồng chí Cao Văn Bổ, tự vệ chiến đấu các xã, công nhân sở cao su Phước Hòa,… lần lượt đến gia nhập bộ đội Huỳnh Văn Nghệ. Lực lượng vũ trang trong toàn Quận được thống nhất lại. Sau đó, nhiều lực lượng yêu nước ở các nơi khác như phân đội Ban Tiếp tế miền Đông của đồng chí Đào Văn Quang, các đơn vị tự vệ của Tổng Công đoàn Nam Bộ, các tổ chức kháng chiến bị tan rã, công nhân từ các xưởng Ba Son, đềpô (depot) Dĩ An, BIF Biên Hòa cũng lần lượt rút về Bắc Tân Uyên.
Được bổ sung lực lượng, ta mở Trại huấn luyện quân sự tại Miếu Bà (nay thuộc xã Đất Cuốc). Hàng trăm thanh niên tự vệ chiến đấu, công nhân, nông dân, sinh viên được trang bị những kiến thức quân sự cơ bản. Đến cuối tháng 11/1945, bộ đội Huỳnh Văn Nghệ tổ chức thành 4 phân đội, gọi là Vệ quốc đoàn Biên Hòa, hoạt động chủ yếu trong phạm vi quận Tân Uyên. Phân đội 1 được bố trí hoạt động ở vùng căn cứ thuộc các xã Tân Hòa, Mỹ Lộc, Thường Lang, Tân Tịch, Lạc An.
Tháng 11/1945, Trường huấn luyện du kích tỉnh Biên Hòa từ ấp Vĩnh Cửu (xã Tam Hiệp, Châu Thành) chuyển về Gành Rái, sau đó về Sở Tiêu, gần trại huấn luyện Đất Cuốc. Đây là trại huấn luyện quân sự đào tạo cán bộ chỉ huy đánh du kích và phân đội nhỏ của tỉnh ra đời sau hội nghị Bình Trước. Cùng với Trại huấn luyện Đất Cuốc, Trường huấn luyện Sở Tiêu đã góp phần đào tạo các cán bộ nòng cốt cho phong trào du kích địa phương trong toàn tỉnh.
Đầu tháng 11/1945, Nguyễn Bình được Trung ương cử vào phụ trách công tác quân sự ở Nam Bộ. Trong khi đi nắm tình hình ở các chiến trường, đồng chí về Tân Uyên khảo sát thực địa. Nhận rõ vị trí, địa thế thuận lợi của vùng Bắc Tân Uyên, đồng chí đã thảo luận với Ban Chỉ huy Vệ quốc đoàn Biên Hòa về việc chọn khu vực Lạc An lập căn cứ địa cho toàn khu.
Ngày 10/12/1945, tại Đức Hòa (Chợ Lớn), Hội nghị Quân sự toàn Nam Bộ được triệu tập. Đồng chí Hoàng Quốc Việt và nhiều cán bộ được Trung ương cử vào và ở các địa phương đã về dự. Chấp hành lệnh của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Hội nghị quyết định chia Nam Bộ thành các chiến khu 7, 8, 9, chỉ định Khu trưởng và Ủy viên chính trị khu; đồng thời, bàn biện pháp củng cố lực lượng vũ trang tỉnh, thành phố, các chi đội Vệ quốc đoàn và xây dựng các khu Lạc An, Đồng Tháp, U Minh làm căn cứ cho các chiến khu.
Khu 7, một tổ chức hành chính – quân sự, được chính thức thành lập gồm các tỉnh Thủ Dầu Một, Biên Hòa, Tây Ninh, Gia Định, Chợ Lớn, Bà Rịa và thành phố Sài Gòn. Nguyễn Bình được chỉ định làm Khu trưởng, đồng chí Trần Xuân Độ làm Ủy viên chính trị Khu. Ngày 17/12/1945, cơ quan Khu bộ Khu 7 về đứng chân và xây dựng hệ thống phòng thủ ở Tân Uyên. Cơ quan Khu bộ đóng ở thị trấn Tân Uyên. Cùng với cơ quan Khu bộ Khu 7, một số đơn vị vũ trang trong toàn Khu cũng chuyển một bộ phận về đóng ở Tân Uyên và các vùng kế cận.
Như vậy, đến đầu năm 1946, sau hơn 2 tháng từ khi thực dân Pháp đánh lên Biên Hòa, Thủ Dầu Một, phần lớn lực lượng vũ trang cách mạng ở miền Đông Nam Bộ đã lần lượt rút về vùng Tân Uyên để củng cố, xây dựng lực lượng. Đó là cơ sở cho sự ra đời của Khu 7.
Việc xây dựng căn cứ được triển khai có hệ thống, các cơ quan, đơn vị, công xưởng… đóng từng khu vực và mang mật danh A, B, C, D (A là căn cứ giao thông liên lạc đóng ở Giáp Lạc, B là căn cứ hậu cần đóng ở Thường Lang, C là khu bộ đội thường trực đóng ở Ông Đội, D là khu Tổng hành dinh Khu 7 đóng ở hố Ngãi Hoang). Lúc đầu, Đ là mật danh của Tổng hành dinh của Khu 7 nằm trong hệ thống các căn cứ của Khu. Về sau, mật danh Đ được dùng để chỉ cả vùng chiến khu rộng lớn ở miền Đông Nam Bộ. Tuy nhiên, cũng có nhiều ý kiến khác cho rằng, chữ Đ mang ý nghĩa là “đỏ”, hàm ý là vùng chiến khu cách mạng kiên cường, tập trung những cơ quan đầu não kháng chiến quan trọng, một “địa chỉ đỏ” của cả nước; chữ Đ là viết tắt địa danh Đất Cuốc, nơi thi tướng Huỳnh Văn Nghệ tập hợp lực lượng, khởi cứ đầu tiên; chữ Đ là viết tắt chiến khu Đồng Nai, chiến khu miền Đông, chiến khu Đầu tiên… Thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp, Chiến khu Đ được hình thành chủ yếu từ hạt nhân 5 xã Tân Hòa, Mỹ Lộc, Thường Lang, Tân Tịch, Lạc An thuộc quận Tân Uyên, tỉnh Biên Hòa - nay thuộc huyện Bắc Tân Uyên, tỉnh Bình Dương. Từ năm 1948 đến suốt cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ, Chiến khu Đ được mở rộng, phát triển lên phía Bắc và Đông Bắc.
Tóm lại, trong điều kiện hết sức thiếu thốn, khó khăn, các cơ quan kháng chiến và đơn vị vũ trang đã tập hợp ở vùng Tân Uyên với quyết tâm xây dựng căn cứ kháng chiến lâu dài. Đi đôi với công tác xây dựng căn cứ, mọi hoạt động hậu cần được triển khai có kết quả, đáp ứng được nhu cầu đối với một căn cứ kháng chiến. Trong quá trình xây dựng, củng cố và phát triển, Bắc Tân Uyên với vai trò là cái nôi của Chiến khu Đ đã có những đóng góp không nhỏ về vật chất, tinh thần và đặc biệt phải nhấn mạnh tấm lòng yêu nước của người dân đối với cách mạng do Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo.
2.2.2. Thực hiện “tiêu thổ kháng chiến”, đánh địch tại chỗ
Đến cuối tháng 10/1945, quân đội Pháp mở rộng lấn chiếm ra các tỉnh xung quanh. Thực hiện chủ trương của Đảng và Chính phủ, Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh Biên Hòa ra lệnh “tiêu thổ kháng chiến”. Các cơ quan lãnh đạo của tỉnh chuyển về xây dựng căn cứ kháng chiến ở vùng Tân Uyên. Nhiều xã thuộc quận Tân Uyên do được tuyên truyền, giải thích về chủ trương tiêu thổ kháng chiến, vận động nhân dân không hợp tác với địch, nhờ đó, đồng bào đã triệt để thực hiện chủ trương của chính quyền cách mạng. Họ đã không ngần ngại châm lửa đốt hết nhà cửa, trường học, đình, chùa rồi rút đi nơi khác. Ngoài ra, người dân nơi đây, nhất là lực lượng thanh niên còn vót hàng nghìn cây chông cắm trên những đồng trống để chống quân Pháp nhảy dù. Đồng thời, trong quận cũng dấy lên phong trào đắp mô, chặt cây hai bên đường làm vật cản bước tiến quân giặc.
Ngày 24/10/1945, có quân Anh yểm trợ, quân Pháp dùng chiến xa mở đường vượt cầu Gành, đánh chiếm thị xã Biên Hòa. Ngày 24/01/1946, giặc Pháp chiếm thị trấn Tân Uyên trong cảnh vườn không, nhà trống. Sau khi ổn định sự chiếm đóng ở Tân Uyên trong năm 1946, về mặt hành chính, ở cơ sở, thực dân Pháp tái lập cai tổng. Đó là chính quyền địa phương, đồng thời cũng là chính quyền quân sự. Về mặt quân sự, chúng xây dựng một số yếu khu ở thị trấn tương đương với một tiểu khu, trực thuộc tỉnh. Tại Tân Uyên, chúng còn thiết lập ba chi khu ở ba nơi tạo thành thế bố trí hình tam giác. Một là, Chi khu Cây Đào được coi là đầu cầu tiếp tế và tuyến ngăn chặn ta từ phía Đông Bắc đi lên Biên Hòa; hai là, Chi khu Tân Ba; ba là, Chi khu Phước Hòa. Quân số ở mỗi chi khu gồm cả quân chính quy của Pháp và ngụy binh ít nhất cũng một trung đội, nhiều nhất gần một đại đội. Các chi khu đều do sĩ quan Pháp chỉ huy.
Để diệt tề trừ gian, giữ gìn an ninh và thúc đẩy phong trào kháng chiến trong các xóm ấp, Quận ủy thành lập 4 tổ ám sát hoạt động ở các xã, khu vực liên xã. Trong đó, tổ ám sát 1 hoạt động ở khu vực các xã Tân Hòa, Mỹ Lộc, Tân Nhuận, Tân Tịch, Thường Lang, Lạc An, do Võ Văn Trảo làm Tổ trưởng.
Các tổ được biên chế gọn nhẹ, tỏa về các địa phương hoạt động, cảnh cáo những tên Việt gian tay sai, trừng trị những tên khét tiếng tàn ác có nợ máu với cách mạng. Ngay sau những ngày được thành lập, một số Việt gian có nhiều nợ máu với cách mạng đã bị đền tội, như cai tổng Chánh Mỹ Hạ Nguyễn Văn Chi, tên Cả Phổ làng Phước Thành,… Với tinh thần chiến đấu dũng cảm, phương thức hoạt động táo bạo, bí mật, bất ngờ, hoạt động của các tổ ám sát đã làm cho địch tại địa phương rất lo sợ.
Song song với hoạt động ám sát những kẻ phản động có nhiều nợ máu với cách mạng, nhiều trận đánh của quân và dân Chiến khu Đ đã tiêu diệt nhiều sinh lực địch, gây tiếng vang lớn. Đêm 1 rạng sáng ngày 02/01/1946, dưới sự chỉ huy của đồng chí Nguyễn Bình, Khu trưởng Khu 7, các lực lượng Vệ quốc đoàn Biên Hòa (Huỳnh Văn Nghệ), Thủ Dầu Một (Chi đội 1), Bình Xuyên (Dương Văn Dương), Gia Định (Đào Sơn Tây) đã phối hợp tấn công bất ngờ vào các mục tiêu như trạm gác, nhà lao, công sở, đầu cầu của Pháp trong thị xã Biên Hòa. Đòn tấn công bất ngờ các mục tiêu địch trong thị xã Biên Hòa đã gây tiếng vang lớn, đập tan lời huênh hoang của thực dân Pháp “đã tiêu diệt hết Việt Minh”; đồng thời, cổ vũ tinh thần kháng chiến của nhân dân Biên Hòa nói chung, Bắc Tân Uyên nói riêng.
Để trả thù ta tấn công thị xã Biên Hòa, ngày 18/4/1946, Pháp đưa 7.000 lính có xe tăng thiết giáp, do tướng Lơlec (Le Clerc) Tổng tư lệnh quân đội viễn chinh Pháp ở Đông Dương chỉ huy, tiến hành bao vây vùng Phước Hòa, Lạc An (Bắc Tân Uyên) nhằm tiêu diệt lực lượng kháng chiến của ta. Trong các ngày 19, 20, 21/4/1946, quân Pháp chia làm nhiều cánh hành quân qua các nơi như đồn kiểm lâm, Giáp Lạc, Đất Cuốc,… Quân ta do thông thạo địa hình đã vây đánh địch từ nhiều hướng, làm cho chúng chết và bị thương gần 100 tên. Sau trận này, thực dân Pháp tiến hành bao vây nhằm tiêu diệt lực lượng ta, nhưng ta đã nghi binh đánh lạc hướng, rút tất cả lực lượng một cách an toàn. Ngoài ra, nhân dân trong Chiến khu (khoảng 2.000 người) cũng thoát khỏi vòng vây của giặc tại xóm Sình an toàn.
Đây là một trong những trận ta vận dụng lối đánh du kích rất hay. Lúc địch tập trung lực lượng bao vây thì ta lợi dụng địa hình để phân tán lực lượng đánh địch từ nhiều hướng, làm cho chúng khó phát hiện lực lượng ta. Khi chúng lùng sục suốt ngày đã bị thấm mệt, đến lúc co cụm lại ăn nghỉ, thì ta lại dùng chiến thuật tập trung lực lượng bí mật bao vây, đồng loạt nổ súng tiêu diệt địch một cách bất ngờ. Đồng thời, ta cũng đã nghi binh, đánh lạc hướng địch một cách tài tình, thoát ra khỏi vòng vây của kẻ thù một cách an toàn.
Từ giữa năm 1946, tại khu vực quanh căn cứ Chiến khu Đ, Pháp đóng thêm một số đồn bót như Nhà Nai, Tân Lợi, Tân Hòa, Đất Cuốc, Tân Tịch, Thường Lang, Lạc An, Rạch Đông kéo dài đến dốc Bà Nghĩa, cổng Nhà Thiếc, Bình Mỹ, Cổng Xanh, Tân Trạch, An Chữ, Rạch Tre. Từ các đồn bót trên, Pháp liên tục mở nhiều cuộc càn quét hòng tiêu diệt một bộ phận vũ trang của ta còn bám trụ.
Để củng cố chính quyền kháng chiến phù hợp với tình hình mới, địa bàn Tân Uyên lúc này được tổ chức thành 9 quận quân sự. Mỗi quận quân sự gồm một số xã, làm nhiệm vụ vận động nhân dân tiếp tế nuôi quân và gia nhập du kích. Để phát triển phong trào du kích và tạo địa bàn đứng chân hoạt động, các phân đội Vệ quốc đoàn được chia nhỏ về các quận quân sự, chỉ để lại 2 trung đội cơ động bảo vệ khu căn cứ, máy móc, cơ sở hậu cần đã cất giấu. Ngoài ra, mỗi quận cũng tiến hành chấn chỉnh lại tổ chức Mặt trận Việt Minh, các đoàn thể kháng chiến. 40 cán bộ nam, nữ của các xã được cử lên tỉnh dự khóa học khoảng một tháng về công tác mặt trận do Mặt trận Việt Minh tỉnh mở. Các cán bộ này trở về các quận quân sự, đến tận các xóm ấp để xây dựng cơ sở, vận động quần chúng, củng cố Ủy ban hành chính các cấp.
Cuối tháng 4/1946, đồng chí Nguyễn Đức Thuận, Bí thư Khu ủy Miền Đông về Biên Hòa, triệu tập Hội nghị cán bộ toàn tỉnh tại Cù Lao Vịt (xã Bình Hòa, quận Châu Thành, nay thuộc huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai). Trong Hội nghị, đồng chí đã chỉ rõ sai lầm, khuyết điểm của Tỉnh ủy Biên Hòa trong nhận thức và thực hiện chỉ thị “Đảng Cộng sản Đông Dương tự giải tán”, dẫn đến tình trạng Đảng không lãnh đạo toàn diện kháng chiến, nhất là với lực lượng vũ trang. Vì vậy, Nghị quyết Hội nghị tập trung vào các công tác quan trọng như xây dựng hệ thống lãnh đạo Đảng các cấp, nâng cao năng lực lãnh đạo toàn diện của Đảng, nhất là với lực lượng vũ trang; củng cố Mặt trận Việt Minh và các đoàn thể; xây dựng khối đoàn kết toàn dân để tập hợp lực lượng kháng chiến. Hội nghị tại Cù lao Vịt có ý nghĩa quan trọng đối với Đảng bộ và phong trào kháng chiến tỉnh Biên Hòa, xác lập được lãnh đạo tập trung của Tỉnh ủy đối với lực lượng vũ trang, xây dựng được mối quan hệ hợp tác chặt chẽ giữa dân - quân - chính - đảng.
Tháng 5/1946, Tỉnh ủy mở Hội nghị quân sự tỉnh tại xóm Đèn (xã Tân Hòa). Hội nghị đã ra nghị quyết về hai vấn đề lớn:
- Thống nhất các lực lượng vũ trang gồm: Du kích Sở Tiêu, Vệ quốc đoàn quận Châu Thành, Vệ quốc đoàn Biên Hòa, (sau có thêm Vệ quốc đoàn quận Long Thành) thành Vệ quốc đoàn Biên Hòa.
- Xây dựng Chiến khu Đ thành căn cứ địa kháng chiến của tỉnh.
Hội nghị quân sự tỉnh Biên Hòa tháng 5/1946, góp phần tạo nền tảng cho việc thống nhất lực lượng vũ trang trong tỉnh.
Đến tháng 6/1946, Khu bộ Khu 7 ra quyết định thành lập Chi đội 10 Biên Hòa do đồng chí Huỳnh Văn Nghệ làm Chi đội trưởng, Phan Đình Công làm Chính trị viên. Chi đội 10 Biên Hòa có 1.100 chiến sĩ chia làm 3 đại đội A, B, C đứng chân hoạt động ở các quận Tân Uyên, Châu Thành, Long Thành, Xuân Lộc. Chi đội 10 Biên Hòa được thành lập đã tạo ra một sức mạnh mới, hỗ trợ phong trào cách mạng và lực lượng vũ trang các địa phương không ngừng phát triển.
3.1. Xây dựng, phát triển thực lực về mọi mặt, đẩy mạnh các hoạt động kháng chiến (1947-1950)
3.1.1. Đẩy mạnh công tác xây dựng Đảng, phát triển đấu tranh du kích
Theo kế hoạch của Bộ Chỉ huy quân đội Pháp, phải tập trung lực lượng bình định Nam Bộ dứt điểm vào mùa thu năm 1947, “tách Nam Kỳ ra khỏi cuộc chiến tranh”, từ đó, dồn sức ra chiến trường miền Bắc, hòng giải quyết triệt để cuộc chiến. Bình định Nam Bộ trở thành khâu then chốt trong chiến lược “đánh nhanh thắng nhanh” của thực dân Pháp. Do đó, Valuya để lại cho Nam Đông Dương nửa số quân tăng viện từ Pháp sang. Quân số của Tướng Nyô lên gần 40% lực lượng quân viễn chinh (23/69 tiểu đoàn bộ binh, 9 đại đội pháo binh, 5 đại đội kỵ binh, quân số tất cả là 35.000) cùng với trên 60.000 lính bảo an và khoảng 10.000 dân vệ.
Đối với Tân Uyên nói chung, Bắc Tân Uyên nói riêng, về quân sự, tuy địch hơn hẳn ta về trang bị và kinh nghiệm, song, không tiêu diệt được lực lượng kháng chiến của ta. Những thủ đoạn tuyên truyền bịp bợm, gian xảo của địch không lừa gạt, lôi kéo được đại bộ phận nhân dân. Những tội ác tày trời của địch không làm cho dân ta khiếp sợ, trái lại còn nung nấu ý chí căm thù, quyết chiến đấu với chúng đến thắng lợi cuối cùng.
Tháng 01/1947, Tư lệnh bộ Khu 7 (từ tháng 12/1946, Khu bộ Khu 7 đổi tên là Tư lệnh bộ) mở Hội nghị Quân sự, chủ trương chấn chỉnh lại lực lượng vũ trang, xây dựng lực lượng vũ trang ngày càng hoàn chỉnh, tổ chức đánh giao thông địch, chống càn quét và đẩy mạnh chiến tranh du kích.
Tại Chiến khu Đ, chấp hành chỉ thị của cấp trên, Chi đội 10 một mặt tăng cường công tác xây dựng, bảo vệ căn cứ của tỉnh, mặt khác, chấn chỉnh lại lực lượng, tổ chức các trận đánh ra ngoài tiêu diệt địch, vừa đánh vừa rút kinh nghiệm xây dựng phát triển đơn vị. Để bảo vệ căn cứ, ngoài việc bố trí các phân đội thuộc Đại đội A, Chi đội 10 còn xây dựng mạng lưới trinh sát tình báo làm nhiệm vụ nắm tình hình địch, chống do thám, gián điệp và thông báo tình hình địch kịp thời cho Ban Chỉ huy Chi đội. Đầu năm 1947, tổ trinh sát của Chi đội dời về Chiến khu Đ và đổi thành Tổ tình báo do đồng chí Bùi Trọng Nghĩa phụ trách. Tổ đã đi móc nối xây dựng các ban tình báo huyện, xã trong toàn tỉnh. Riêng ở Chiến khu Đ, dựa vào bộ phận của đồng chí Chín Quỳ, Ban Chỉ huy Chi đội lập một trung đội tình báo kiêm cảnh sát quân sự - tòa án binh hoạt động trong địa bàn Chiến khu. Công tác bảo vệ căn cứ được đặt ra một cách có hệ thống và thường xuyên.
Ngày 18/01/1947, giặc Pháp huy động lực lượng càn vào Tân Tịch và nhảy dù xuống Mỹ Lộc nhằm đánh úp cơ quan kháng chiến tỉnh và Chi đội 10. Các phân đội bảo vệ căn cứ đã chặn đánh quyết liệt, diệt 1 tiểu đội, thu nhiều đạn, thuốc men và 100 chiếc dù. Qua trận đánh này, bộ đội ta có thêm kinh nghiệm chiến đấu chống chiến thuật nhảy dù đánh úp của địch, từ đó, triển khai xây dựng hệ thống vật cản chống địch nhảy dù. Bộ đội và du kích chặt cây vạt nhọn chôn xuống đất, hình thành những bãi chông lớn khắp các trảng trống.
Tháng 3/1947, nhờ có cơ sở nội ứng phối hợp, Chi đội đã tập kích bất ngờ diệt gọn đồn Đất Cuốc do một trung đội địch đóng giữ, giải tỏa vùng trung tâm Chiến khu.
Tháng 7/1947, Tỉnh ủy Biên Hòa đã triệu tập hội nghị cán bộ Đảng toàn tỉnh lần thứ II tại Mỹ Lộc. Hội nghị đã kiểm điểm phong trào địa phương từ khi cả nước bước vào cuộc kháng chiến, nhận thấy phong trào kháng chiến ở địa phương có bước phát triển, nhưng sự lãnh đạo của Đảng chưa toàn diện. Hội nghị đã cử đồng chí Nguyễn Văn Ký làm Bí thư Tỉnh ủy, đồng chí Huỳnh Văn Lũy, Phó Bí thư - Chủ nhiệm Mặt trận Việt Minh tỉnh; đồng chí Huỳnh Văn Nghệ làm Quyền Chủ tịch Ủy ban hành chính kiêm Ủy viên quân sự tỉnh và củng cố các đoàn thể cứu quốc. Sau Hội nghị, Tỉnh ủy cử nhiều đồng chí trong cấp ủy dự các lớp huấn luyện về công tác Đảng ở Khu và Xứ, đồng thời, Tỉnh ủy đã mở nhiều lớp bồi dưỡng, tập huấn nhằm nâng cao trình độ nhận thức lý luận và lãnh đạo cho đảng viên.
Tiếp đó, ngày 28/7/1947, Thường vụ Xứ ủy Nam Bộ ban hành chỉ thị “Phát triển Đảng”. Bản chỉ thị vạch rõ thiếu sót của công tác phát triển Đảng thời gian qua và nêu lên những tiêu chuẩn, thủ tục kết nạp và giáo dục đảng viên mới, đồng thời, chỉ đạo phải hết sức cảnh giác đối với những phần tử cơ hội, xu thời, len lỏi vào hàng ngũ của Đảng để “lợi dụng thanh danh của Đảng mà thỏa thích lòng riêng của họ”. Bản chỉ thị “Phát triển Đảng” của Xứ ủy Nam Bộ đã đáp ứng được yêu cầu lãnh đạo thực tế của cuộc kháng chiến, đồng thời, định hướng cho sự phát triển Đảng, phát triển phong trào ở địa phương. Sau khi có chỉ thị “Phát triển Đảng”, Tỉnh ủy Biên Hòa đã chỉ đạo cho các Huyện ủy, Ủy ban kháng chiến, Ủy ban hành chính, Mặt trận Việt Minh, các đoàn thể cứu quốc,… nhanh chóng đưa cán bộ về xã để củng cố bộ máy Đảng, chính quyền; đồng thời, qua thực tế phong trào ở địa phương, xây dựng chi bộ cơ sở, bồi dưỡng, kết nạp đảng viên mới.
Phối hợp với chiến trường chung, nhằm phá kế hoạch thu đông năm 1947-1948 của Pháp ở Việt Bắc, Tỉnh ủy Biên Hòa chỉ đạo lực lượng vũ trang chuẩn bị tiến công ra ngoài căn cứ, chủ yếu đánh giao thông địch nhắm vào các đoàn xe côngvoa. Chi đội 10 Biên Hòa đã mở một loạt trận phục kích đánh giao thông diệt nhiều sinh lực địch, nổi bật là trận đánh giao thông Đồng Xoài (quốc lộ 14) ngày 19/12/1947, kỷ niệm một năm ngày toàn quốc kháng chiến. Ngày 01/3/1948, dựa vào tin tức của Chi quân báo do Bùi Trọng Nghĩa chỉ huy, Chi đội 10 đánh trận giao thông La Ngà (quốc lộ 20 Sài Gòn - Đà Lạt) giành thắng lợi, gây tiếng vang trong và ngoài nước. Đây là trận đánh giao thông lớn nhất ở Nam Bộ lúc bấy giờ, thể hiện rõ ý chí chiến đấu của lực lượng cách mạng[5].
Thực hiện Nghị quyết Hội nghị Quân khu 7 ngày 27/3/1948 về xây dựng 10 trung đoàn, ngày 14/6/1948, Chi đội 1 được nâng lên thành Trung đoàn 301. Các đại đội 1, 2, 3 trở thành các tiểu đoàn 901, 902, 903. Chi đội 10 Biên Hòa cũng trở thành Trung đoàn 310 vào thời điểm đó.
Thực hiện sự chỉ đạo của Tỉnh ủy về “Phát triển Đảng”, cuối năm 1948, Huyện ủy Tân Uyên mở lớp bồi dưỡng và đào tạo cán bộ cơ sở, do các đồng chí trong Thường vụ Huyện ủy như Huỳnh Văn Đính (Hai Đính), Lê Huyền, Xuân Nguyên phụ trách lớp học. Gần 40 bí thư, phó bí thư các xã trong huyện về dự. Lớp học đã bồi dưỡng chính trị và năng lực công tác lãnh đạo, chỉ đạo cho chi bộ Đảng ở cơ sở, duy trì và phát triển một đội ngũ cán bộ cơ sở thường xuyên ở các địa bàn trong toàn huyện.
Bên cạnh việc đánh địch, quân và dân Chiến khu Đ còn phải đối phó với những loài thú dữ, tiêu biểu là cọp ba móng. Đầu năm 1948, ở rừng miền Đông Nam Bộ xuất hiện một con cọp ba móng vô cùng tinh ranh, gieo rắc kinh hoàng cho cư dân và bộ đội. Trong một thời gian ngắn, nó đã ăn thịt gần 200 người, trong đó, có chị Bảy Cao - Hội trưởng Hội Phụ nữ xã Lạc An, anh Chín Lượm (ở Lạc An)… Đến khi con gái của Chủ tịch xã Lạc An bị cọp vồ trên đường đi rẫy thì Ủy ban kháng chiến - hành chính tỉnh Biên Hòa ra chỉ thị thành lập đội săn cọp và bằng mọi giá phải diệt được cọp ba móng, trả lại sự bình yên cho người dân. Sau một thời gian theo dõi, đội săn cọp đã tìm ra “quy luật” của cọp ba móng và nhiều lần tiêu diệt nhưng nó vẫn không chết. Đến khi nó vồ chết chị Hồng ở ấp Đất Đạo, được gia đình chị Hồng đồng ý, đội săn cọp đã cài mìn vào xác chị Hồng và chung quanh khu vực. Ba ngày sau, cọp ba móng mò ra ăn. Mìn nổ tứ tung. Lần này, nó không thoát chết. Xác của nó, tám người khiêng vẫn thấy nặng.
3.1.2. Cùng toàn tỉnh đánh phá chiến thuật tháp canh của thực dân Pháp
Đầu năm 1948, Tướng Đờlatua (Delatour Desmer) thay tướng Ni-ô (Nyô) chỉ huy lực lượng quân Pháp ở Nam Bộ. Tướng Đờlatua đã xây dựng ở Nam Bộ một mạng lưới cứ điểm nhỏ, tháp canh chằng chịt nhằm bảo vệ vùng giao thông, siết chặt vùng chiếm đóng và ngăn chặn lực lượng của ta; chia cắt khống chế và bao vây các căn cứ kháng chiến. Mỗi tua, tháp canh cách nhau chừng 1 km và có từ nửa đến một tiểu đội lính chiếm giữ. Ở những vị trí quan trọng nhưng chưa cần thiết đóng đồn, chúng xây “Tua mẹ” lớn hơn, có từ một đến hai tiểu đội thân binh canh giữ. Đồn là nơi đóng quân và là nơi xuất phát hành quân càn quét, gây tội ác của địch.
Diệt cứ điểm, nhổ đồn, đánh tua, tháp canh là mối quan tâm thường trực của quân và dân ta. Bộ Tổng tham mưu quân đội đã chỉ thị cho lực lượng vũ trang Nam Bộ phải nghiên cứu phá chiến thuật cứ điểm nhỏ, đội quân ứng chiến nhỏ của Pháp. Có làm thất bại chiến thuật này, ta mới phá được chính sách “bình định” của chúng. Thực hiện chủ trương của Bộ Tổng tham mưu, đêm 19/3/1948, diễn ra trận đánh độc đáo tiêu diệt tháp canh cầu Bà Kiên trên đường 16. Trận đánh có ý nghĩa mở đầu cho việc đánh bại chiến thuật tháp canh của thực dân Pháp. Từ đây, ra đời chiến thuật đặc công.
Tháng 3/1949, diễn ra một cuộc chống càn tại Chiến khu Đ. Địch huy động cả ngàn quân đánh vào Bộ Tư lệnh Quân khu và các cơ quan đầu não tỉnh Biên Hòa. Chúng chia lực lượng thành nhiều cánh tấn công, có xe tăng yểm trợ. Bộ Tư lệnh Quân khu chỉ đạo trận chống càn này. Ngoài các đơn vị chặn đánh các ngả đường vào Chiến khu và đánh tàu trên sông Đồng Nai, đồng chí Trần Công An chỉ huy một tiểu đội đặc công đánh thử nghiệm xe tăng bằng mìn do ta tự tạo. Mìn tự tạo được bố trí sẵn theo đường vào Văn phòng Bộ Tư lệnh. Ba xe tăng địch tiến vào trận địa, trúng mìn, bị tan xác tại chỗ. Ở các cánh quân khác, nhiều binh lính địch và xe tăng cũng bị thiệt hại nặng. Lần đầu tiên trên chiến trường Nam Bộ, xe tăng địch bị diệt khiến bọn chỉ huy hốt hoảng, vội vã rút quân, kết thúc cuộc càn.
Cũng trong tháng 4/1949, ta tổ chức đánh cứ điểm Dàm Giá nằm trên đường 14, cách yếu khu Phước Hòa 8km về phía bắc. Cứ điểm này vừa là tua, vừa là bót, có 4 tầng, xây cất kiên cố. Mỗi tầng đều có lỗ châu mai. Lực lượng đóng giữ là 1 trung đội lính Âu - Phi. Cứ điểm được bảo vệ bằng 4 lớp kẽm gai, giữa 2 lớp rào cắm chông dày đặc. Lực lượng ta gồm Đại đội Bạch Đằng và đội du kích tập trung do đồng chí Trần Công An chỉ huy. Bộ đội bí mật cắt rào kẽm gai vào đến tận chân tường và đặt mìn do ta sản xuất (trái lớn nặng hơn 20kg). Mìn nổ, tường ximăng dày bị rã từng miếng lớn. Cả trung đội địch bị diệt gần hết. Ta bắt 4 tù binh Pháp còn sống, thu nhiều súng đạn, trong đó, có 1 khẩu đại liên cùng lương thực các loại chở đầy 4 xe bò. Sau trận này, địch rút bỏ tua Vàm Vá.
Rút kinh nghiệm từ các trận đánh bằng chiến thuật đặc công, tháng 5/1949, Quân khu 7 mở lớp huấn luyện đặc công tại Bà Đã cho 85 học viên các tỉnh Tây Ninh, Thủ Dầu Một, Biên Hòa, Bà Rịa, Gia Định. Đây là chiến thuật mới nhằm đánh vào hệ thống tua mà địch đang dựng lên chằng chịt khắp các nơi xung yếu.
Tháng 6/1949, trung đội du kích tập trung do Huyện đội phó Cổ Tấn Chương chỉ huy đã đánh bất ngờ lấy bót Rạch Tre, thu hết súng đạn rồi đốt tua. Sau trận này, địch đóng lại tháp canh, xây tường bêtông rất chắc, cửa sắt dày, ngoài có lưới kẽm gai bảo vệ. Lực lượng địch đóng giữ được tăng gấp đôi.
Tháng 10/1949, Tỉnh đội phó Dân quân Biên Hòa là Bùi Cát Vũ và Giám đốc Công binh xưởng Đặng Sĩ Hùng đã nghiên cứu sản xuất được loại vũ khí phá tường (ký hiệu FT). Sau khi thử nghiệm đạt kết quả tốt, công binh xưởng tiếp tục sản xuất hàng loạt vũ khí này.
Trong khi các đơn vị lực lượng vũ trang của ta tập trung tìm mọi cách đánh tiêu hao, tiêu diệt địch trên các chiến trường, lực lượng trinh sát, công an xung phong, du kích các xã luôn bám địa bàn tìm diệt những tên tề gian ác, những tên chỉ điểm, gián điệp, góp phần làm thất bại chiến tranh gián điệp của chúng. Những tên Việt gian có nhiều nợ máu với nhân dân, với cách mạng bị đền tội ngay trong hang ổ của chúng. Đó là các tên Trần Ngọc Sâm (lính kín), cai tổng Cao ở Tân Khánh. Tại Tân Uyên, các tên xã Bí, tổng Ngô, tổng Khỏe, tổng Quốc, xã Lê, hương cả Xuân, hương cả Chà,… đều bị ta tiêu diệt. Những trận diệt tề, trừ gián điệp, chỉ điểm đều thực hiện đúng đối tượng, đúng chính sách, được cán bộ, đồng bào hoan nghênh. Nhờ đó, từ cuối năm 1949, ở nhiều xã thuộc vùng yếu, bộ máy kìm kẹp của địch bị phá lỏng.
Tháng 10/1949, Trung đoàn 301 sáp nhập với Trung đoàn 310 thành Liên trung đoàn 301 - 310 do đồng chí Nguyễn Văn Thi làm Liên trung đoàn trưởng, đồng chí Nguyễn Quang Việt vừa được Xứ ủy điều về Thủ Dầu Một làm Bí thư Tỉnh ủy kiêm Chính trị viên. Thực hiện chủ trương phân tán lực lượng thành các đại đội độc lập. Liên trung đoàn hoạt động đều khắp ở các huyện. Đến đây, ba thứ quân trong tỉnh được hình thành rõ rệt. Tỉnh có tiểu đoàn chủ lực, huyện có đại đội độc lập và du kích tập trung, xã có từ 1 tiểu đội đến trung đội dân quân du kích.
Từ nửa cuối năm 1949, Ủy ban kháng chiến hành chính tỉnh Biên Hòa chỉ đạo bổ sung thêm một số quy định nhằm đẩy mạnh sản xuất, bảo đảm kinh tế tự túc, chống địch phong tỏa bao vây. Các đơn vị bộ đội và cơ quan dân chính khắc phục hiện tượng chỉ lo kinh doanh, “làm thương mại” mà chuyển sang tập trung cho sản xuất, lấy trồng trọt, chăn nuôi làm chính. Ta mở rộng các nguồn thu như thu thuế sản xuất trong căn cứ, thuế đánh vào các loại hàng hóa bán vào vùng tạm bị chiếm, thuế thu ở vùng du kích và tạm bị chiếm, ở các sở cao su.
Cuối năm 1949, Chiến khu Đ được mùa lớn. Số lúa thu hoạch trong Chiến khu tăng gấp 20 lần so với vụ mùa cuối năm 1947. Nông dân phấn khởi đóng góp lương thực cho cách mạng như lập bồ lúa kháng chiến hoặc bán chịu chờ ngày độc lập lấy tiền sau. Các sinh hoạt trong Chiến khu dần dần ổn định trở lại. Dọc bến Chang Chang, bàu Ông Iểng, Sình,… hình thành những trung tâm dân cư, có các hiệu tạp hóa, ăn uống, chụp hình, cắt tóc, may đo…
Đến cuối năm 1949, mặc dù ta đã thu được những thành tích đáng kể trong việc bảo vệ căn cứ, bảo vệ dự trữ kháng chiến nhưng công tác xây dựng căn cứ đáp ứng yêu cầu chung còn chưa được chú ý đúng mức và còn nhiều thiếu sót. Những thiếu sót đó tác động không nhỏ đến việc xây dựng, phát triển các lực lượng vũ trang theo kịp yêu cầu chung của chiến trường toàn quốc. Bộ đội thiếu quân số, thiếu vũ khí, thiếu được huấn luyện cơ bản; hoạt động tác chiến còn theo lối du kích, chưa chuẩn bị đủ điều kiện cho nhiệm vụ chuyển sang tổng phản công.
Trong khi đó, thực dân Pháp ngày càng đẩy mạnh bình định trên toàn chiến trường Nam Bộ. Đến cuối năm 1949, hệ thống tháp canh được thiết lập tương đối hoàn chỉnh trên toàn chiến trường miền Đông. Xung quanh Chiến khu Đ, chúng dựng lên hàng loạt tháp canh nối liền nhau. Trên đường 16, từ Tân Ba lên thị trấn Tân Uyên đến sở cao su Phước Hòa; dọc lộ 24, từ Cây Đào đến Rạch Đông,… Tháp canh của địch mọc lên dày đặc, tạo thành một vành đai bao bọc Chiến khu từ cả 3 phía Bắc, Tây và Nam.
Một yêu cầu cấp bách đối với ta lúc này là phải tìm mọi biện pháp để diệt được tháp canh của địch, đánh mạnh vào giao thông của chúng và giải tỏa, mở rộng vùng căn cứ. Tháng 11/1949, tại dốc Bà Nghiêm xã Tân Hòa, Bộ Tư lệnh Khu 7 triệu tập hội nghị chuyên đề đánh tháp canh. Đại diện các đơn vị chủ lực, tỉnh đội, huyện đội và binh công xưởng Khu đã về dự. Trên cơ sở kết luận của hội nghị về phương án bí mật tiếp cận dùng vũ khí tiêu diệt mục tiêu, Bộ Tư lệnh giao nhiệm vụ cho tỉnh đội Biên Hòa tổ chức đánh tháp canh và chỉ thị cho Ban Quân giới Khu sản xuất loại mìn có khả năng đánh sập tường tháp.
Chấp hành mệnh lệnh của Bộ Tư lệnh Khu, Tỉnh đội Biên Hòa tổ chức lớp học đánh tháp canh. Ba trăm du kích ưu tú được chọn từ các huyện về, biên chế thành 50 tổ. Đồng chí Bùi Cát Vũ, Tỉnh đội phó tỉnh Biên Hòa cho dựng một tháp canh giả và chỉ huy luyện tập. Các học viên đã tiến hành luyện tập với tinh thần nghiêm túc hăng hái và tuyệt đối giữ bí mật.
Đầu năm 1950, mọi công tác chuẩn bị đánh tháp canh hoàn tất. Các học viên đã được tập luyện một cách thành thục và sẵn sàng nhận nhiệm vụ. Ban Quân giới Khu cải tiến xong một loại mìn và cho nổ thử ở lò đường cũ tại Lạc An, thu được kết quả tốt. Tỉnh đội Biên Hòa quyết định tiến hành trận đánh.
Đêm 21 rạng ngày 22/3/1950, 50 tổ du kích đồng loạt tập kích 50 tháp canh dọc các lộ 24, 16, 15 và quốc lộ 1. Kết quả, cả 50 tháp canh đều bị thủng 1 lỗ nhưng không bị sập. Bọn lính ngủ trong tháp bị chết, riêng tên gác trên sàn nóc còn sống đã dùng súng và lựu đạn đối phó lại ta. Trận đánh 50 tháp canh tuy không thu được kết quả mong muốn nhưng đã gây ra tác động mạnh đối với địch, kích thích tinh thần hăng hái diệt tháp canh của chiến sĩ ta.
Sau trận đánh, Bộ Tư lệnh Khu 7 cùng với Tỉnh đội Biên Hòa mở hội nghị rút kinh nghiệm, khẳng định tính ưu việt của kỹ thuật bí mật tiếp cận đánh tháp canh. Hội nghị bổ sung hoàn chỉnh cách đánh mới: Sau khi cho nổ FT, đưa thêm một quả mìn Pêta qua lỗ thủng cho nổ tiếp từ bên trong để đánh sập tường tháp. Ban quân giới Khu lại được giao nhiệm vụ sản xuất mìn FT và Pêta và đội du kích Tân Uyên được giao nhiệm vụ đánh thử nghiệm một tháp canh theo phương pháp mới.
Đêm 18/4/1950, một tổ du kích Tân Uyên do đồng chí Bùi Cát Vũ và đồng chí Trần Công An chỉ huy đột nhập “tháp canh mẹ” tại cầu Bà Kiên nằm trên đường 16. Theo phương pháp đánh mới, 2 quả mìn FT và Pêta đã đánh sập tháp canh, diệt hoàn toàn bọn lính trong tháp, thu toàn bộ vũ khí. Sau trận cầu Bà Kiên, du kích Tân Uyên phối hợp với Đại đội Bạch Đằng diệt tháp canh Vàm Vá nằm trên đường 14, án ngữ một cửa ngõ quan trọng vào Chiến khu Đ. Trong trận này, ta diệt 1 trung đội lê dương, thu 1 súng cối 60 ly, 1 đại liên, hàng tấn đạn dược và lương thực, thực phẩm. Trận cầu Bà Kiên và trận Vàm Vá đã khẳng định thắng lợi của cách đánh mới, mở ra khả năng đánh bại chiến thuật tháp canh của địch. Xung quanh Chiến khu Đ, từ sau tháng 4/1950, ta tiếp tục diệt nhiều tháp canh khác. Chiến khu ngày càng được mở rộng. Phong trào diệt tháp canh từ đây lan rộng ra toàn tỉnh, toàn Khu 7 và trên nhiều chiến trường khắp cả nước. Tại Chiến khu Đ, Khu và tỉnh mở các lớp huấn luyện đánh tháp canh cho cán bộ, bộ đội và du kích khắp nơi về học. Kỹ thuật đánh tháp canh còn được bộ đội ứng dụng rộng rãi trong đánh lô cốt, đồn bót, cầu cống, kho tàng.
Tháng 6/1950, Trung ương Đảng và Chính phủ quyết định mở Chiến dịch Biên giới nhằm tiêu diệt một bộ phận sinh lực quan trọng của địch, giải phóng một phần đất đai, củng cố và mở rộng căn cứ địa Việt Bắc. Tháng 7/1950, Bộ Tư lệnh Nam Bộ chỉ đạo củng cố thêm một bước lực lượng vũ trang ba thứ quân, tập trung xây dựng chủ lực mạnh, xây dựng bộ đội địa phương tỉnh, huyện, phát triển dân quân du kích, kiện toàn các cơ quan chỉ đạo khu, tỉnh đội, huyện đội. Các tỉnh đều thành lập một tiểu đoàn địa phương và bộ đội chủ lực. Mỗi huyện có 1 đại đội địa phương.
Trên địa bàn Chiến khu Đ, du kích tập trung Tân Uyên xây dựng thành đại đội bộ đội địa phương huyện, lấy tên là Đại đội Nguyễn Văn Nghĩa, do đồng chí Trần Công An, Huyện đội phó kiêm Đại đội trưởng; đồng chí Bùi Công Tạo là Đại đội phó; đồng chí Ước là Chính trị viên.
Để phối hợp với các chiến dịch lớn đang mở ra trên chiến trường cả nước, Bộ Tư lệnh Khu quyết định mở chiến dịch Bến Cát vào tháng 10/1950. Đây là chiến dịch tiến công quy mô lớn đầu tiên của bộ đội chủ lực ta trên chiến trường miền Đông. Khắp nơi, công tác chuẩn bị cho chiến dịch triển khai sôi nổi, khẩn trương.
Ở Tân Uyên, bộ đội địa phương chuẩn bị mở đợt tiến công phối hợp nhằm thu hút địch. Nhân dân trong Chiến khu phát động phong trào “hũ gạo nuôi quân”. Các Hội mẹ chiến sĩ, Hội phụ nữ vận động các hội viên quyên góp lương thực, thực phẩm và các vật dụng sinh hoạt ủng hộ bộ đội.
Chiến dịch Bến Cát giành được thắng lợi, ta tiêu diệt một bộ phận sinh lực và phương tiện chiến tranh của địch, đánh mạnh vào hệ thống đồn bót tháp canh của chúng xung quanh Chiến khu Long Nguyên và dọc tuyến hành lang từ Chiến khu Đ lên Chiến khu Dương Minh Châu, cổ vũ tinh thần kháng chiến của nhân dân ta.
Tóm lại, từ đầu năm 1947 đến cuối năm 1950, dưới sự lãnh đạo của Tỉnh ủy, trực tiếp là Huyện ủy Tân Uyên, phong trào cách mạng ở Bắc Tân Uyên không ngừng phát triển. Hệ thống tổ chức Đảng được xây dựng và phát triển nhanh. Lực lượng bộ đội địa phương và dân quân du kích từng bước trưởng thành và hoạt động chiến đấu chống bình định, lấn chiếm, tiêu diệt và tiêu hao sinh lực địch. Bằng nhiều cách đánh ngày càng có hiệu quả, ta đã tiêu diệt hàng loạt tháp canh của địch, góp phần làm thất bại âm mưu bình định, lấn chiếm của thực dân Pháp, xây dựng và giữ vững Chiến khu, căn cứ kháng chiến. Vùng ta làm chủ được mở rộng ra các hướng, nối liền với các căn cứ địa, tạo thành địa bàn đứng chân cho các lực lượng vũ trang (bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân du kích) hoạt động, góp phần đưa cách mạng chuyển sang một giai đoạn mới.
3.2. Khắc phục khó khăn, đẩy mạnh kháng chiến, tiến công địch mọi mặt, góp phần giành thắng lợi trên chiến trường toàn tỉnh (1951 - 7/1954)
3.2.1. Góp phần giữ vững và mở rộng Chiến khu Đ, bám trụ sản xuất, cứu đói sau bão lụt
Tháng 02/1951, Đảng Cộng sản Đông Dương tiến hành Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II. Sau Đại hội II, Trung ương Đảng chủ trương tổ chức lại chiến trường Nam Bộ thật gọn và mạnh, đáp ứng kịp với tình hình mới, thành lập Trung ương Cục miền Nam thay cho Xứ ủy Nam Bộ, giải thể ba Quân khu 7, 8 và 9. Nam Bộ được chia thành hai Phân liên khu: Phân liên khu miền Đông và Phân liên khu miền Tây. Phân liên khu miền Đông gồm đặc khu Sài Gòn - Chợ Lớn và 5 tỉnh mới: Gia Định Ninh, Thủ Biên, Bà Rịa - Chợ Lớn, Mỹ Tho và Long Châu Sa. Các tỉnh Nam Bộ còn lại gộp thành Phân liên khu miền Tây. Phân liên khu ủy và Ủy ban kháng chiến hành chính Phân liên khu miền Đông trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo các đơn vị hành chính trong Phân liên khu. Theo chủ trương trên, tháng 5/1951, hai tỉnh Thủ Dầu Một và Biên Hòa nhập lại thành tỉnh Thủ Biên. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Thủ Biên được chỉ định gồm 21 đồng chí, Ban Thường vụ có 5 đồng chí.
Tháng 6/1951, Tỉnh ủy Thủ Biên họp Hội nghị Tỉnh ủy mở rộng. Sau khi đánh giá tình hình chung trong toàn tỉnh, Hội nghị đã đề ra những công việc lớn phải thực hiện đến cuối năm 1951. Về mặt tư tưởng, phải thực hiện đoàn kết nội bộ từ cấp ủy đến các ban ngành đoàn thể tỉnh, kiên định lập trường chiến đấu đến cùng, nâng cao tinh thần tự lực cánh sinh nhằm chủ động đối phó với những khó khăn về nhiều mặt đang xuất hiện và có thể tăng thêm trong thời gian tới. Triệt để giảm chi, thực hành tiết kiệm, thực hiện phương châm “tinh binh, tinh cán”, “giản chính” trong từng cơ quan, đơn vị vừa nhằm nâng cao chất lượng công tác và chiến đấu vừa bảo đảm giải quyết hợp tình, hợp lý số người dôi ra sau khi tinh giản bộ máy. Đưa lực lượng vũ trang tỉnh ra tuyến trước, phối hợp và hỗ trợ lực lượng huyện và du kích xã chống hành động lấn chiếm của địch, phối hợp với địa phương giúp dân bảo vệ vụ mùa, đánh bại âm mưu cướp lúa, đốt lúa của địch. Phát động phong trào sản xuất cải thiện đời sống. Từng cơ quan, đơn vị, chuẩn bị về tư tưởng, tổ chức và vật chất để ra quân đồng loạt phát rừng làm mùa ven Sông Bé, thực hiện sản xuất tự túc về lương thực. Các huyện chọn địa điểm thích hợp cho cơ quan, đơn vị mình. Có kế hoạch xây dựng Chiến khu Đ một cách toàn diện.
Sau Hội nghị đầu tháng 6, Tỉnh ủy triển khai thực hiện Nghị quyết của Hội nghị. Trước đây, Thủ Dầu Một và Biên Hòa đều rất coi trọng những căn cứ lớn nhỏ trong tỉnh (ta thường gọi là chiến khu), song chưa đặt vấn đề xây dựng toàn diện các căn cứ ấy. Nay Trung ương Cục miền Nam chỉ đạo tỉnh Thủ Biên phải quy hoạch lại toàn bộ nhằm xây dựng, củng cố và bảo vệ Chiến khu Đ, vừa là căn cứ lớn nhất của tỉnh vừa là căn cứ của Khu và Nam Bộ. Chiến khu Đ phải vừa là ngọn cờ hiệu triệu, vừa là nơi đồn trú các lực lượng lớn và là bàn đạp tấn công địch trên các hướng mà chủ yếu là thành phố Sài Gòn - Chợ Lớn, thủ phủ của Nam Bộ. Do đó, ta phải củng cố các tổ chức Đảng, chính quyền và đoàn thể quần chúng, kiện toàn các đội du kích xã, củng cố bộ đội địa phương huyện, phân chia khu vực đóng quân giữa lực lượng tỉnh và huyện, lập phương án chống càn một cách chủ động, tăng cường cơ sở vật chất, bảo đảm hậu cần cho nhân dân và các cơ quan, đơn vị đóng trên địa bàn, có kế hoạch tăng gia sản xuất, tự túc lương thực, tuyên truyền giáo dục nhân dân phòng gian bảo mật, bảo đảm hành lang vận chuyển từ Chiến khu ra các vùng xung quanh.
Theo hướng củng cố căn cứ, Tỉnh ủy chủ trương sáp nhập huyện Tân Uyên và huyện Hớn Quản thành huyện Đồng Nai. Đồng chí Lê Thái, Ủy viên Thường vụ Tỉnh ủy được phân công làm Bí thư Huyện ủy; đồng chí Vũ Đình Thính, nguyên Bí thư Hớn Quản làm Phó Bí thư; đồng chí Nguyễn Văn Tư, Tỉnh ủy viên, Tỉnh đội phó Thủ Biên về Đồng Nai làm Ủy viên Thường vụ kiêm Huyện đội trưởng. Sự thành lập huyện căn cứ đã góp phần định lại căn cứ về mặt hành chính, tạo điều kiện thuận lợi trong việc chỉ đạo và tổ chức thực hiện nhiệm vụ đặc biệt của vùng căn cứ địa này.
Để bảo đảm cho việc bố phòng bảo vệ căn cứ, huyện Đồng Nai chia làm 6 khu vực. Mỗi khu vực do các trạm trinh sát quân báo phụ trách. Đại đội địa phương Nguyễn Văn Nghĩa chuyển sang làm nhiệm vụ bảo vệ căn cứ, quân số có 120 người chia làm 3 trung đội hoạt động trên các khu vực của huyện. Tiểu đoàn bảo vệ 295 thành lập tháng 02/1951 do đồng chí Bùi Khánh Ngươn làm Chỉ huy trưởng cùng phối hợp với Tiểu đoàn chủ lực 303 làm nhiệm vụ chủ yếu bảo vệ căn cứ. Các xã, cơ quan, nông trường, công trường trong khu vực căn cứ đều tổ chức đội du kích từ 1 tổ đến 1 trung đội tùy theo quân số biên chế. Tổng số du kích trong Chiến khu có 350 người. Các đội du kích được vũ trang bằng các loại vũ khí thô sơ và huấn luyện về kỹ thuật, chiến thuật chiến đấu, các phương án tác chiến chống càn.
Hệ thống vật cản phòng thủ bằng hầm hố chông, cần bật, lựu đạn gài được thiết lập. Những nơi dự kiến địch có thể nhảy dù hoặc dùng xe cơ giới đi tới đều được chôn cọc và đặt các loại mìn chống tăng. Mọi cửa ngõ vào Chiến khu, đặc biệt ở mặt sông Đồng Nai đều có trạm gác của các tổ du kích. Mạng lưới trinh sát thông tin được hình thành khá chặt chẽ giữa các tổ trinh sát chuyên môn của quân báo, công an và các cơ sở trong nhân dân.
Công trường căn cứ địa Đồng Nai được thành lập làm nhiệm vụ sản xuất, sửa chữa vũ khí phục vụ cho công tác bảo vệ căn cứ như sửa súng, nhồi đạn, làm lựu đạn, chông mìn. Các tổ vũ khí xã được củng cố về mặt tổ chức, trang bị thêm dụng cụ sản xuất và quán triệt phương châm sản xuất các vũ khí thiết thực như đạp lôi, bàn chông và các loại nông cụ.
Các cơ quan, đơn vị đều tổ chức sản xuất lương thực. Huyện lập trại sản xuất tại bàu Ông Yểng và rải rác khắp căn cứ. Lúa, mỳ, khoai được trồng khắp các rẫy ở Suối Đá, xóm Ông Thủ, Thiềng Liềng, bàu Phụng, nhất là khu vực Sình, Hàng Dài, Vĩnh An, Bà Đã, Bà Hào và xung quanh khu vực nhà ở.
Cuối tháng 6/1951, việc sắp xếp mọi mặt trong căn cứ vừa tạm ổn định thì địch tổ chức cuộc càn lớn. Hàng trăm xe cơ giới và tàu chiến, có pháo binh, máy bay yểm trợ từ 4 mặt tiến công vào Chiến khu.
Theo phương án tác chiến đã được chuẩn bị, Tiểu đoàn 295 chia quân bảo vệ các cơ quan, công xưởng, kho tàng. Đại đội 55 Tiểu đoàn 303 chặn đánh địch ở hướng Tân Dân. Đêm đến, Đại đội bất ngờ tập kích khoảng một tiểu đoàn Âu - Phi ngủ đêm tại Bàu Bếp. Bị đánh bất ngờ, quân địch chạy tán loạn. Gần một phần ba quân số tiểu đoàn địch bị thương vong. Khi chúng gom quân lại và đưa thương binh lên máy bay chuẩn bị rút, Đại đội Nguyễn Văn Nghĩa bắn một trái đạn cối đúng vào giữa đội hình giặc làm tên Paren (chỉ huy cuộc càn) bị thương nặng, về đến đồn thì chết. Ở hướng Mã Đà, một đại đội khác của Tiểu đoàn 303 tập kích một đại đội lính lê dương, gây cho chúng thiệt hại nặng. Trên đường 16, đội biệt động Thủ Biên diệt 3 xe cơ giới. Bọn địch hốt hoảng tháo chạy, bỏ lại 13 xe và hàng trăm xác chết. Thắng lợi của trận chống càn tháng 6/1951 chứng tỏ sự thành công của việc nâng cấp, bố trí lại căn cứ và khả năng phối hợp chiến đấu giữa các đơn vị vũ trang và nhân dân vùng căn cứ.
Hạ tuần tháng 9/1951, Hội nghị cán bộ lần thứ nhất tỉnh Thủ Biên họp tại suối Sâu (Đất Cuốc). Tham dự Hội nghị có trên 100 cán bộ từ Tỉnh ủy, đến các huyện ủy, Thị xã ủy, cán bộ nòng cốt các ban ngành, đoàn thể, đơn vị vũ trang trong tỉnh. Đồng chí Lê Duẩn, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Cục miền Nam, trực tiếp chỉ đạo Hội nghị suốt 10 ngày. Trong điều kiện cuộc kháng chiến bước vào giai đoạn gay go, quyết liệt, hội nghị đã góp phần củng cố tinh thần và ý chí chiến đấu, nâng cao nhận thức về công tác xây dựng Đảng, công tác chính quyền, đoàn thể; đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện và trường kỳ; về phương châm, hoạt động quân sự ở các vùng và đấu tranh kinh tế với địch, đẩy mạnh sản xuất tự túc ở vùng căn cứ du kích, chú trọng phòng gian bảo mật, chống chiến tranh gián điệp, chiêu hàng của địch. Sau Hội nghị, Tỉnh ủy họp Hội nghị bất thường rà soát lại công tác tổ chức, cán bộ và những hoạt động từ tỉnh đến cơ sở để đối phó có hiệu quả với kế hoạch “bình định gấp rút, phản công quyết liệt” của địch.
Sau khi lập huyện Đồng Nai, Huyện ủy đóng ở Chiến khu Đ không chỉ đạo sát các xã của Hớn Quản cũ nên phong trào ở đây có phần sa sút. Vì vậy, sau khi cân nhắc kỹ cuối năm 1951, Tỉnh ủy quyết định tách huyện căn cứ Đồng Nai thành hai huyện như cũ là huyện Hớn Quản và huyện Tân Uyên (huyện Tân Uyên lúc này lấy tên là huyện Đồng Nai). Sau khi tách huyện một thời gian, tình hình đã được cải thiện ở các xã thuộc huyện Hớn Quản.
Sang năm 1952, tướng Bôngđi thay Săngxông làm Tư lệnh quân viễn chinh Pháp ở Nam Bộ, tiếp tục thực hiện chính sách “bình định gấp rút”, “phản công quyết liệt” với quyết tâm cao hơn, thủ đoạn thâm độc hơn. Ở tỉnh Thủ Biên, chúng tăng cường đánh phá vùng tạm bị chiếm và vùng du kích. Xung quanh Chiến khu Đ, Pháp tiến hành thiết lập các hành lang chia cắt, lấn dần. Chúng đóng hàng loạt đồn bót, chi khu như Phước Hòa, Tân Ba, Chánh Lưu, Gò Lũy dưới sự chỉ huy của tên quan ba Pháp ở Tân Uyên; lấn chiếm sâu rộng các vùng phì nhiêu như Vĩnh Hòa, Bà Miêu, Bình Đa, Gò Chùa, sở Ông Cố, đồng thời, bao vây kinh tế chặt chẽ, cô lập Chiến khu Đ với Sài Gòn, Chợ Lớn và các tỉnh miền Tây. Đường liên lạc giữa Chiến khu với các vùng xung quanh luôn bị phục kích. Đường vận tải liên tỉnh từ miền Tây lên rất khó thực hiện vì địch kiểm soát gắt gao. Chuyến vận tải nào cũng có người hy sinh. Có đơn vị hy sinh hơn nửa quân số trong một chuyến công tác vận tải. Nhiều người khi vận tải về đến Chiến khu Đ trong bồng chỉ còn vài lon gạo và một ít khô cá kèo. Các nguồn vận chuyển lương thực, thực phẩm, hóa liệu, thuốc men về Chiến khu bị ngưng trệ, gián đoạn.
Trong Chiến khu, Tiểu đoàn bảo vệ căn cứ 295 sáp nhập vào đơn vị khác và được điều động về Chiến khu Dương Minh Châu. Nhiệm vụ bảo vệ căn cứ giao cho Tiểu đoàn 303 và bộ đội địa phương huyện. Các đơn vị bộ đội này thiên về hoạt động tác chiến đánh địch ngoài căn cứ. Lực lượng cơ sở tại chỗ ít được củng cố, bổ sung. Trong khi đó, địch ngày càng hoạt động ráo riết. Phong trào du kích trong căn cứ vì thế sa sút hẳn. Để bảo đảm an ninh trong căn cứ, công tác phòng gian bảo mật được đẩy mạnh và thu được nhiều kết quả. Ty công an cử cán bộ về phối hợp với công an huyện căn cứ và các xã đội, tổ chức đoàn thể các xã phát động quần chúng giữ gìn an ninh căn cứ, xây dựng ý thức bảo mật phòng gian, tổ chức các tổ ngũ gia liên bảo. Đặc biệt, trong thời gian này, ngành quân báo và công an tỉnh Thủ Biên đã phá hàng loạt vụ án gián điệp, bắt và xử lý nhiều tên Phòng nhì Pháp chui vào hàng ngũ của ta như tên Đường ở Liên hiệp Công đoàn tỉnh, tên Khôi ở Phòng Tham mưu Tỉnh đội và vợ y là Điệp, tên Tòng ở Văn phòng Tỉnh đội, tên Kia ở Ty Kinh tài… Một trong những vụ án nghiêm trọng nhất là vụ gián điệp Mai Văn Hạo. Hạo vốn là công chức của Pháp tại Tòa Hành chánh tỉnh Biên Hòa. Lợi dụng Chỉ thị 4/NV của Ủy ban kháng chiến hành chánh Nam Bộ, y vào căn cứ Bình Đa, được nhận vào công tác tại cơ quan huyện Vĩnh Cửu, sau đó được điều lên cơ quan tỉnh đóng tại Chiến khu Đ. Y tỏ ra giác ngộ và hoạt động tích cực nên được tín nhiệm cử làm Phó Bí thư Tỉnh ủy đảng Dân chủ tỉnh Biên Hòa, rồi Ủy viên Ban Liên Việt tỉnh Thủ Biên. Hạo đã bí mật cung cấp cho địch nhiều tài liệu, tin tức mật của ta, vẽ bản đồ khu vực căn cứ, chỉ điểm cho máy bay Pháp ném bom nhiều cơ quan, làm nhiều người chết và bị thương. Hạo bị ta theo dõi và bị bắt. Trước tòa, y buộc phải thú tội và lãnh án tử hình. Tình hình an ninh trong căn cứ nhờ thế được củng cố một bước quan trọng, tạo nên sự phấn khởi, tin tưởng trong cán bộ, chiến sĩ và nhân dân.
Ngày 01/5/1952, Bộ Tư lệnh Phân liên khu miền Đông chấp hành chỉ thị của Trung ương Cục ra quyết định thành lập Tiểu đoàn vận tải 320, làm nhiệm vụ tiếp nhận hàng hóa của Trung ương do Liên khu 5 chuyển giao từ Bình Thuận vào Chiến khu Đ, từ đó phân phối cho các đơn vị trên khắp chiến trường; giữ vững đường liên lạc giữa Nam Bộ với Trung ương; đưa đón các đoàn cán bộ qua lại trên tuyến đường này. Đồng chí Nguyễn Văn Lung được phân công chịu trách nhiệm xây dựng và chỉ huy đơn vị. Tiểu đoàn tổ chức thành 4 đại đội: 3 đại đội vận tải và 1 đại đội làm nhiệm vụ đầu cầu như tiếp nhận hàng hóa, chuyển nhập kho, làm kho tàng bí mật bảo quản, bàn giao hàng, tăng gia sản xuất,…
Thượng tuần tháng 6/1952, tại Bà Đã, những bộ phận đầu tiên đã tổ chức lễ thành lập Tiểu đoàn 320. Lễ thành lập Tiểu đoàn cũng là lễ xuất quân chuyến vận tải đầu tiên. Đường vận tải xê dịch lên xuống trên một tuyến hành lang dài 200-300km từ xóm Sình lên Lạc An, vượt sông Đồng Nai qua Vĩnh Cửu xuống rừng lá, Xuyên Mộc đến Bình Châu, Bình Thuận. Thời gian mỗi lượt đi mất 7-8 ngày đêm. Hàng vận tải giai đoạn này chủ yếu là nguyên, hóa liệu cho quân giới và một số súng lớn như đại liên, DKZ, đạn lõm.
Giặc Pháp nhanh chóng đánh hơi thấy đường vận chuyển chiến lược này. Chúng đóng hàng loạt đồn bót ở các đoạn đường số 1, đường sắt, đường Võ Đắc, đường 20 dọc hành lang vận chuyển của ta; dùng tay sai người dân tộc thiểu số dẫn đường luồn rừng, gài mìn phục kích, tập kích, nã đại bác cầm canh ngày đêm. Bộ đội phải thường xuyên mở đường mới trong rừng, tăng cường các bộ phận trinh sát cảnh giới và chặn hậu, chiến đấu diệt địch trên đường vận tải. Tháng 9/1952, vừa chở hàng về Chiến khu Đ, gặp phải trận càn lớn của địch, Tiểu đoàn đã phối hợp với Tiểu đoàn 303 chiến đấu, diệt và làm bị thương gần 20 tên.
Sự ra đời và hoạt động của Tiểu đoàn 320 đã tạo điều kiện tiếp nhận kịp thời và có hiệu quả sự lãnh đạo và chi viện của Trung ương cho Nam Bộ đang trong giai đoạn gặp nhiều khó khăn. Chiến khu Đ từ nay giữ thêm một nhiệm vụ quan trọng là làm một đầu cầu của con đường vận chuyển chiến lược từ Trung ương vào Nam Bộ.
Ngày 20/10/1952, một trận bão lụt lớn đã xảy ra đối với các tỉnh miền Đông. Sông Đồng Nai, Sông Bé,… nước dâng tràn như một biển lớn. Nhà cửa bị trôi dạt, gia súc, gia cầm chết sạch, ruộng lúa, rẫy lúa, rẫy mì của đồng bào và nhiều cơ quan, đơn vị dọc theo sông đều chìm trong nước. Lúa ruộng mất trắng. Chỉ có một số rẫy ở vùng đất cao tuy còn nhưng cũng bị ngã đổ vì mưa to, gió lớn. Sau trận lụt, nước rút đi để lại một cảnh hoang tàn, đổ nát.
Ở Chiến khu Đ, năm 1951, địch bao vây phong tỏa, kinh tế làm cho đời sống cán bộ chiến sĩ và nhân dân rất cơ cực. Sang năm 1952, bão lụt làm hoa màu thối rữa hết, cán bộ chiến sĩ ở Chiến khu Đ bị đói ghê gớm, chỉ ăn rau rừng, khoai. Cả tháng mới có được bữa cơm độn khoai mì, khoai lang. Lợi dụng lúc ta đang gặp khó khăn nghiêm trọng vì thiên tai, giặc Pháp tiến hành hàng loạt biện pháp nhằm xóa sạch căn cứ. Chúng liên tục hành quân càn quét, bao vây, ngăn chặn các ngã đường vận chuyển, nhất là vận chuyển lương thực, tuyên truyền, chiêu dụ cán bộ, chiến sĩ ra đầu thú.
Tình hình sinh hoạt mọi mặt của Chiến khu gặp nhiều khó khăn. Mọi hoạt động sản xuất, huấn luyện, vận tải bị gián đoạn. Hàng vạn cán bộ, bộ đội, nhân dân thiếu ăn hàng ngày. Tiêu chuẩn gạo cho bộ đội từ 20 đến 25 lít một tháng trước bão lụt, nay tụt xuống còn 7 lít, thậm chí có nơi còn 3 lít, không còn đủ gạo để nấu cháo cho thương binh ăn. Những người khỏe mạnh phải đi đào củ mì đã bị thối rữa do ngập nước lâu ngày hoặc củ mài, củ chụp, tìm các loại rau rừng, măng tre để ăn trừ bữa. Bị đói, thiếu quần áo, thuốc men lại phải liên tục di chuyển địa điểm và chống càn nên số người đau ốm tăng vọt, có nơi chiếm đến 60% quân số. Khá đông nông dân dù một lòng gắn bó với kháng chiến vẫn buộc phải tạm lánh về vùng địch chiếm. Nhiều gia đình phải gửi bố mẹ già và con nhỏ về thành để “bớt miệng ăn”. Tính riêng các xã Thanh Lâm, Chánh Bình, Tân Dân, Thường Lang, có hơn 2.000 người về vùng địch tạm chiếm. Trước tình hình đó, Trung ương Cục miền Nam họp ra chỉ thị khắc phục khó khăn, phát động phong trào sản xuất cứu đói và kêu gọi đồng bào khắp nơi ủng hộ nhân dân vùng bão lụt.
Chấp hành chỉ thị của Trung ương Cục, Ủy ban kháng chiến hành chính Nam Bộ tập trung tiền mặt cung cấp cho quân nhu Phân liên khu miền Đông mua gạo. Đồng bào, cán bộ, bộ đội miền Tây tổ chức “tuần lễ ủng hộ miền Đông”, quyên góp gửi hàng triệu đồng tiền Đông Dương, hàng chục tấn gạo, thực phẩm và vật phẩm khác. Các tỉnh miền Đông vận động đồng bào vùng không bị bão lụt san sẻ khó khăn với vùng bị bão lụt. Các gia đình ở vùng tạm bị chiếm tìm cách gửi cho bà con hoặc con em đi kháng chiến trong khu tiền, gạo, thuốc men, vải vóc.
Sự giúp đỡ trên đã giải quyết được 50% nhu cầu về lương thực của quân và dân tại Chiến khu trong 3 tháng sau bão lụt. Nó biểu hiện sâu sắc tấm lòng tin yêu và luôn hướng về cách mạng, hướng về Chiến khu của đồng bào khắp nơi trong vùng tạm bị chiếm, khích lệ những người ở lại Chiến khu quyết tâm vượt qua mọi thiếu thốn, gian khổ trước mắt.
Bão lụt vừa dứt, các đơn vị, cơ quan một mặt nhanh chóng khắc phục hậu quả, mặt khác đẩy mạnh sản xuất tự túc. Tại căn cứ, nước rút đến đâu, cây lương thực, hoa màu được trồng ngay đến đó. Đến cuối năm, khắp Chiến khu, đặc biệt dọc sông Đồng Nai, vàm Sông Bé,… các loại cây lương thực ngắn ngày đã lên xanh.
Giữa lúc nhân dân và bộ đội vùng bị lũ lụt nói chung và ở Tân Uyên nói riêng đang tích cực sản xuất sau bão lụt thì địch phá hoại mùa màng một cách điên cuồng. Chúng cho máy bay thường xuyên bay trên vùng căn cứ bắn, giết trâu, bò và những người làm đồng, tưới xăng và dùng bom napan đốt cháy cây cối, hoa màu. Ngoài ra, chúng còn dùng xe lội nước càn ruộng lúa, cho các đội biệt kích đi cắt lúa, nhổ khoai, mì và đốt phá. Trên đường 16, chúng đóng thêm một số đồn bót, thường xuyên tung các đội Commăngđô vào càn phá rồi rút nhanh chóng. Để đối phó với hành động phá hoại của giặc, ta chuyển sang sản xuất ban đêm. Bộ đội có sáng kiến trồng mì đại trà, vì địch không thể phá hết mì và chỉ cần còn cây thì ta vẫn tiếp tục trồng lại dễ dàng. Phong trào trồng mì thành rừng lan rộng khắp nơi. Tiểu đoàn 320 có 20ha rẫy mì ở Bà Hào gọi là “rẫy mì chiến lược”. Tiêu biểu trong số những gia đình nông dân ở vùng căn cứ có nhiều thành tích tăng gia sản xuất chống đói sau bão lụt là gia đình chị Tám Tỷ có rẫy mì rộng đến 13ha. Trong giai đoạn khó khăn này, củ mì đã trở thành nguồn lương thực quan trọng đối với cán bộ, chiến sĩ và nhân dân.
Trận bão lụt xảy ra vào tháng 10/1952 là một thử thách khắc nghiệt đối với tỉnh Thủ Biên nói chung và Bắc Tân Uyên nói riêng. Tuy nhiên, tinh thần chịu đựng, sự nổ lực vươn lên của những người nơi đây cộng với sự tương thân tương ái, giúp đỡ từ các nơi đã từng bước đẩy lùi đói khát và bệnh tật; tinh thần và ý chí chiến đấu tiếp tục được phát huy.
3.2.2. Vượt qua khó khăn, gian khổ, tích cực đánh địch, góp phần kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược
Cuối năm 1952, Đại đội 55, 60, Tiểu đoàn 303 phối hợp với bộ đội địa phương và du kích các huyện Tân Uyên, Bến Cát, Châu Thành, Hớn Quản, Vĩnh Cửu diệt hàng loạt đồn bót như Bến Tranh (2 lần), Bến Thế, Tương Bình Hiệp, Cẩm Vinh, Bà Miêu, Long Điền, Trảng Bom, đốt kho xăng thị xã Biên Hòa.
Đầu năm 1953, các lực lượng vũ trang tại căn cứ đã chống trả quyết liệt trận càn kéo dài 52 ngày đêm của địch. Tiểu đoàn 303 chủ động tiến công địch bằng nhiều hình thức tập kích, phục kích cả ngày đêm, lúc chập tối hoặc từ mờ sáng, diệt được nhiều địch.
Từ tháng 5/1953, thực hiện sự chỉ đạo của trên, ta chuyển hướng công tác ở vùng du kích và vùng địch tạm chiếm. Tuy nhiên, do không thấu đáo tư tưởng chỉ đạo: “Trường kỳ mai phục, súc tích lực lượng, chờ đợi thời cơ, đấu tranh có lý, có lợi, đúng mức”, trong việc thi hành ta có nhiều sai lầm, lệch lạc, rút lực lượng vũ trang vùng tạm chiếm về bổ sung cho bộ đội địa phương, giải tán xã đội bộ, chuyển du kích xã thành du kích mật, một số cán bộ quân sự đưa sang công tác dân vận… đã làm cho vùng du kích yếu và vùng tạm chiếm bị ngưng trệ.
Lợi dụng sai lầm của ta, từ tháng 5 đến tháng 8/1953, giặc Pháp càn vào Chiến khu Đ bốn lần với lực lượng từ một đến hai tiểu đoàn, 24 lần đột kích cấp trung đội. Đặc biệt, tháng 6/1953, chúng dùng 2 đại đội bất ngờ thọc sâu vào Nhà Nai nhằm chụp gọn các cơ quan đầu não của ta. Đồng thời, chúng dùng máy bay ném bom, bắn phá và rải truyền đơn chiêu hàng thường xuyên.
Trong căn cứ, bộ đội, du kích bị động đối phó với các trận càn của địch. Các cơ quan, cơ sở sản xuất lại phải liên tục di chuyển địa điểm trong điều kiện mùa mưa đi lại rất khó khăn. Hoa màu bị bắn phá hư hại đáng kể. Vì vậy, có hơn 1.000 nông dân các xã Thường Lang, Lạc An... lần lượt bỏ Chiến khu ra vùng tạm bị chiếm. Xung quanh Chiến khu Đ, địch gom dân tạo thành một vành đai trắng ven sông Đồng Nai và đường 16.
Trước tình hình đó, tháng 9/1953, Tỉnh ủy tổ chức “Hội nghị chỉnh lý phương châm” nhằm khắc phục sai lầm hữu khuynh. Hội nghị đã đưa ra một số nội dung cần khắc phục như: Đối với vùng tạm chiếm, ta tiếp tục phát động quần chúng đấu tranh chính trị phục vụ cho dân sinh, dân chủ, đồng thời, khôi phục hoạt động vũ trang, kết hợp cả hai lực lượng du kích mật và lộ, kết hợp diệt tề, trừ gian với hoạt động kiểu biệt động để tiêu hao, tiêu diệt sinh lực địch, bồi dưỡng lực lượng ta. Đối với các xã du kích đã xếp loại sai phải xếp loại lại, phục hồi tổ chức và hoạt động theo phương châm vùng du kích, tấn công địch bằng vũ trang không hạn chế.
Sau khi cán bộ các cấp được học tập, liên hệ về sai lầm hữu khuynh đã qua và đề ra kế hoạch khắc phục khuyết điểm, phong trào vũ trang ở vùng tạm chiếm và du kích từng bước được khôi phục và phát triển. Mặt khác, ta đưa cán bộ ly hương về bám trụ ở địa bàn. Chủ trương đúng đắn trên được các cấp phấn khởi tiếp thu và nghiêm chỉnh chấp hành. Tại Chiến khu Đ, đội vũ trang tuyên truyền tỏa ra hoạt động ở các vùng du kích, vùng tạm chiếm, xây dựng lại lực lượng, móc nối cơ sở, diệt tề trừ gian. Sau một thời gian đẩy mạnh hoạt động vũ trang tuyên truyền, phong trào du kích được phục hồi. Mỗi xã xây dựng được hai tiểu đội du kích làm nòng cốt chiến đấu chống càn, bảo vệ làng xóm. Tiểu đoàn 303 phối hợp với Huyện đội tổ chức huấn luyện, phát triển du kích chiến tranh. Đội du kích các xã tích cực bảo vệ và tham gia thu hoạch vụ mùa. Chỉ riêng cánh đồng Lạc An, ta thu hoạch được 25.000 giạ thóc, vụ mùa thắng lợi, nạn đói được đẩy lùi, đồng bào phấn khởi nộp thuế nông nghiệp. Việc dự trữ lương thực trong bộ đội, du kích được nâng lên.
Từ giữa năm 1953, lực lượng so sánh giữa ta và địch trong cả nước đã thay đổi có lợi cho ta. Tháng 9/1953, Bộ Chính trị họp bàn về nhiệm vụ quân sự Đông Xuân 1953-1954, chủ trương mở cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân 1953-1954 nhằm buộc địch phân tán lực lượng, tạo điều kiện cho chiến tranh du kích phát triển rộng khắp ở vùng sau lưng địch. Đối với chiến trường Nam Bộ, Bộ Chính trị chủ trương đẩy mạnh chiến tranh du kích, lợi dụng địch tập trung lực lượng trên các hướng khác tăng cường hoạt động, tiêu hao, tiêu diệt nhiều bộ phận sinh lực địch, mở rộng căn cứ.
Thực hiện kế hoạch Nava, từ tháng 9/1953, trên chiến trường Đông Nam Bộ, nhiều đơn vị cơ động tinh nhuệ của Pháp rút đi. Tại Thủ Biên, chúng rút 2 tiểu đoàn, 2 đại đội, 5 trung đội Âu - Phi và quân ngụy. Đến tháng 11/1953, địch rút thêm 1 tiểu đoàn quân chính quy nữa. Cuối năm 1953, tổng số quân địch trên toàn tỉnh chỉ còn 26.000 tên, bằng 3/5 tổng số quân năm 1952. Do thiếu quân số và bị ta tấn công, địch phải rút bỏ 4 bót và 17 tháp canh để tổ chức thành những đơn vị cơ động mới và tăng cường một số bót mà chúng cho là quan trọng để trấn giữ đường 14, đường 13. Đó là các bót Phước Hòa, Cầu Định, Bưng Cầu.
Sau khi ta khắc phục những lệch lạc về thực hiện phương châm ba vùng, phong trào toàn tỉnh đã chuyển biến rõ rệt. Tỉnh ủy khẩn trương tổ chức thực hiện chỉ thị của Bộ Tư lệnh Phân liên khu miền Đông với nhiệm vụ chính là giữ vững và đẩy mạnh công tác địch, ngụy vận. Từ cuối năm 1953 sang những tháng đầu năm 1954, phong trào chiến tranh du kích phát triển tương đối đều khắp, công tác địch vận thu được một số thắng lợi.
Từ tháng 9/1953 đến tháng 3/1954, toàn tỉnh đã xây dựng thêm 52 đội du kích xã, đưa số lượng du kích từ 140 lên 513 đội viên. Dân quân tự vệ phát triển từ 453 lên 1.862, du kích mật từ 219 lên 527, trong đó, riêng huyện căn cứ Đồng Nai xây dựng thêm 5 đội du kích. Lực lượng du kích tham gia tích cực trong việc canh gác, thông tin liên lạc, gài mìn, chống càn quét. Riêng du kích xã, ấp đã rào được 10.000m mìn dọc sông Đồng Nai không cho địch đi tàu dưới sông dễ dàng đổ bộ; rào 26.000m xung quanh ấp và nhà ở…
Trên cơ sở phong trào kháng chiến trong tỉnh phát triển, hệ thống đồn bót địch lung lay và bị thu hẹp, một số xã vùng tạm chiếm chuyển lên vùng du kích, vùng du kích chuyển lên vùng giải phóng. Các căn cứ địa trong địa bàn tỉnh được củng cố và ngày càng mở rộng. Chiến khu Đ phát triển lên phía Bắc tới đường 14, phía Đông đến vùng Tà Lài, với diện tích khoảng 4.000km2.
Công tác xây dựng Đảng được đẩy mạnh hơn bao giờ hết ở chi bộ các xã, các đội vũ trang tuyên truyền, các liên chi huyện đội bộ, tỉnh đội bộ, Tiểu đoàn 303, Tiểu đoàn 320, quân giới, nông trường sản xuất,… Phong trào giáo dục văn hóa - văn nghệ phát triển. Huyện căn cứ mở được 14 lớp bình dân học vụ. Đoàn văn công tỉnh Thủ Biên được thành lập biểu diễn phục vụ chiến đấu, sản xuất trong căn cứ, ngoài ra còn tổ chức những đội xung kích đi phục vụ ở những vùng tranh chấp. Nội dung chương trình biểu diễn ca ngợi lòng yêu nước, tinh thần khắc phục khó khăn, dám xả thân vì nghĩa lớn.
Từ cuối năm 1953, ở Chiến khu Đ, xuất hiện một con cọp cái và hai con cọp con ăn thịt người. Trong gần một năm, nó đã ăn khoảng 66 người. Sau khi tìm hiểu quy luật hoạt động của nó, bộ đội đã gài trái diệt ba con cọp này.
Phối hợp với các chiến trường, từ tháng 3/1954, Tỉnh ủy Thủ Biên đã chủ trương mở đợt tiến công quân sự dồn dập vào vùng tạm chiếm, tiêu hao tiêu diệt từng bộ phận sinh lực địch, tạo đà phát triển mới cho vùng sau lưng địch. Cũng từ đó, bộ đội tỉnh, huyện cùng dân quân du kích thực hiện đánh liên tục, tiêu hao, tiêu diệt địch. Tiểu đoàn 303 phối hợp với bộ đội địa phương các huyện Đồng Nai, Vĩnh Cửu, Bến Cát, Châu Thành, Lái Thiêu, Thủ Đức đẩy mạnh hoạt động quân sự như các trận tập kích, pháo kích đồn địch ở Lạc An, đồi Bà Cẩm,…
Thắng lợi của các hoạt động quân sự trên đã tạo điều kiện cho chiến dịch địch, ngụy vận thu được kết quả tốt. Tại Chiến khu Đ, bộ đội và nhân dân tham gia công tác tuyên truyền vận động ngụy binh bỏ hàng ngũ địch về nhà làm ăn hoặc trở về với kháng chiến; thực hiện 4 không (không cướp phá, không bắn giết, không bắt bớ, không hãm hiếp). Nhiều hình thức tuyên truyền vận động thu được kết quả tốt như căng khẩu hiệu, lập trạm dán tin ở các ngả đường có địch đi lại, dùng áp phích thả bè xuôi theo sông qua các vị trí địch, viết thư tay, gửi quà bánh kèm theo thư từ truyền đơn, trực tiếp đến các đồn ngụy thăm hỏi, kể chuyện kháng chiến thắng lợi,... Kết quả, riêng huyện căn cứ Đồng Nai đã vận động được 527 binh lính đào ngũ về nhà làm ăn, 17 binh lính mang 21 súng về đầu hàng.
Ngày 07/5/1954, tập đoàn cứ điểm của thực dân Pháp ở Điện Biên Phủ bị ta tiêu diệt, tin chiến thắng truyền về đã làm nức lòng quân, dân trong tỉnh. Hòa cùng chiến thắng Điện Biên Phủ, đêm 31/5 rạng sáng ngày 01/6/1954, Đại đội 65 thuộc Tiểu đoàn 303 tỉnh Thủ Biên phối hợp với 2 đại đội địa phương huyện Bến Cát và Châu Thành, kết hợp với cơ sở binh vận tiến công tiêu diệt đại đội Commăngđô đóng ở đồn Cầu Định nằm ven quốc lộ 13, cách thị xã Thủ Dầu Một 10km về phía Bắc. Ta diệt và bắt toàn bộ 155 tên, thu toàn bộ vũ khí và nhiều đồ dùng quân sự. Chiến thắng Cầu Định cùng các đợt tiến công trong Đông Xuân 1953-1954 của quân dân tỉnh Thủ Biên nói chung đã đóng góp những thành tích đáng kể, phối hợp với chiến trường chính ở Bắc Bộ giành thắng lợi cuối cùng trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.
Ngày 21/7/1954, Hiệp định Giơnevơ về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam và Đông Dương được ký kết. Cuộc kháng chiến của nhân dân ta chống thực dân Pháp xâm lược kết thúc thắng lợi. Từ ngày 11/8//1954, lệnh ngừng bắn bắt đầu có hiệu lực ở Nam Bộ.
Ngày 15/8/1954, tại căn cứ Bàu Xuân (Chiến khu Đ), Tỉnh ủy Thủ Biên tổ chức Hội nghị bất thường, do đồng chí Nguyễn Quang Việt, Bí thư Tỉnh ủy chủ trì. Hội nghị tập trung bàn biện pháp thực hiện Hiệp định Giơnevơ và đề ra chủ trương công tác trong tình hình mới. Hội nghị đã nghe đồng chí Bí thư Tỉnh ủy quán triệt chủ trương của cấp trên về việc ký kết, về thắng lợi và những nội dung cơ bản của Hiệp định Giơnevơ. Cũng tại Hội nghị này, Tỉnh ủy đã tổ chức một cuộc mít tinh lớn chào mừng thắng lợi của cuộc kháng chiến. Đông đảo đồng bào từ các vùng căn cứ, các vùng tạm chiếm đã về dự lễ trong không khí tưng bừng, phấn khởi.
Sau chín năm kháng chiến, hòa bình đã được lập lại. Ngày 25/8/1954, tại Nhà Nai (Chiến khu Đ), Tỉnh ủy Thủ Biên tổ chức lễ tiễn đưa đoàn quân lên đường tập kết, có hàng vạn người tham gia. Cùng với việc tiễn đưa anh em tập kết, Tỉnh ủy Thủ Biên triển khai các công việc cần kíp trước mắt như phân công cán bộ dân - chính - đảng ở lại; triển khai các chỉ thị, nghị quyết của Đảng; kiện toàn tổ chức, lãnh đạo tư tưởng, chuẩn bị cho cuộc đấu tranh trong giai đoạn mới.
Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược của Đảng bộ, quân và dân vùng Chiến khu Đ giai đoạn 1945-1954 là cuộc kháng chiến gắn liền với việc xây dựng, củng cố, mở rộng vùng căn cứ. Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, Chiến khu Đ là một trong những căn cứ quan trọng của các cấp ủy Đảng, các tổ chức chính quyền và cơ quan chỉ huy quân sự thuộc nhiều quận, huyện, tỉnh lân cận đến Khu 7, Phân liên khu miền Đông và Nam Bộ. Đây là nơi lực lượng kháng chiến rút về để củng cố, xây dựng và tích trữ lực lượng làm chỗ dựa cho cuộc kháng chiến lâu dài; là nơi ở của các cơ quan lãnh đạo kháng chiến và từ đó chỉ đạo, chỉ huy cuộc kháng chiến ở các vùng, các chiến trường; là nơi xây dựng các đơn vị vũ trang tập trung các cấp, từ phân đội nhỏ lẻ trong buổi đầu kháng chiến đến các đơn vị chủ lực tập trung cấp tiểu đoàn, trung đoàn. Đây cũng là địa bàn có hàng ngàn chuyến giao thông liên lạc từ Trung ương đã đi qua, để từ đó tỏa về các tỉnh, là nơi đầu cầu của một đoạn đường vận tải chiến lược của Tiểu đoàn 320 từ vùng giải phóng Khu 5 vào Nam Bộ phục vụ cho các chiến trường… Với tất cả ý nghĩa đó, Đảng bộ, quân và dân Bắc Tân Uyên đã không ngại khó khăn, gian khổ ra sức đóng góp sức người, sức của đáp ứng những yêu cầu nhiệm vụ của cách mạng, xứng đáng là căn cứ “lòng dân” của cuộc kháng chiến.
Chiến khu Đ không chỉ là chiến trường tiêu diệt địch tại chỗ mà còn là nơi xuất phát, là bàn đạp để tiến công địch bên ngoài căn cứ, gây cho chúng những tổn thất nặng nề. Đó là những trận Lạc An, Tân Uyên, Nhà Nai, Bà Đã, cầu Bà Kiên và nhiều trận đánh bại các cuộc càn quét quy mô lớn, có trận kéo dài hàng tháng. Trong những chiến thắng vang dội đó, nhiều trận đã để lại dấu ấn về sự tham gia đóng góp của nhân dân Bắc Tân Uyên.
Tại chiến trường Bắc Tân Uyên - Chiến khu Đ, ngoài sự đánh phá ác liệt của giặc Pháp, sự khắc nghiệt của thiên nhiên, sự thiếu thốn lương thực, thực phẩm, thuốc men là một thử thách lớn lao đối với những con người nơi đây. Có những lúc gặp khó khăn nhất như thời điểm xảy ra trận bão lụt năm 1952, bộ đội nhịn đói mà vẫn đi đánh giặc, lấy lời ca tiếng hát, tình đồng chí, đồng đội động viên nhau vượt khó khăn, chiến đấu. Mỗi cán bộ, chiến sĩ và đồng bào nơi đây đã sống và chiến đấu với niềm tin và lòng thủy chung son sắt vào sự nghiệp cách mạng của Đảng; với tinh thần chịu đựng gian khổ và ý chí vươn tới chiến thắng mãnh liệt trong tình đồng chí, đồng bào trong sáng và thân thiết như tình ruột thịt. Những thử thách khắc nghiệt trong chiến tranh và tình yêu thương đùm bọc lẫn nhau cùng đi trên con đường cách mạng giải phóng dân tộc đã tôi luyện người dân Bắc Tân Uyên trở thành những con người kiên cường, dũng cảm để bước tiếp vào một giai đoạn mới.
--------------------------------------------------------------------------------------------
[1] “Bóc trần mưu gian của đế quốc Nhật”, bài đăng trên báo Cờ giải phóng, số 3 ngày 15/12/1944, xem Ngọn cờ giải phóng, NXB Sự Thật, Hà Nội, 1955, tr.21.
[2] “Cái nhọt bọc sẽ phải vỡ mủ”, bài đăng trên báo Cờ giải phóng, số 7 ngày 28/9/1944, xem Ngọn cờ giải phóng, Sđd, tr.46.
[3] Hồ Chí Minh, Toàn tập, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, t.3, tr.554.
[4] Theo tài liệu tọa đàm được tổ chức vào ngày 14/9/1981 của Ban Nghiên cứu lịch sử tỉnh Đồng Nai. Tham gia cuộc tọa đàm có mặt các nhân chứng lịch sử đồng chí Lê Thái (Năm Thái) nguyên Bí thư Quận ủy Tân Uyên năm 1945; đồng chí Huỳnh Kim Đính (Hai Đính), nguyên Bí thư Quận ủy Tân Uyên năm 1948; đồng chí Trần Công An, nguyên là bộ đội đặc công, Đại đội trưởng Đại đội địa phương, Huyện đội phó Tân Uyên, Thượng tá Quân đội nhân dân Việt Nam đã nghỉ hưu; đồng chí Lê Văn Tư.
Theo Lịch sử Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam tỉnh Đồng Nai, Tập 1 (1930-1995), Nhà xuất bản Đồng Nai, năm 1997, tại trang 111 viết Hội nghị trên tổ chức vào tối 23/9/1945.
[5] Trận La Ngà, ta diệt 59/70 xe quân sự, diệt 150 lính Lê dương, 25 sĩ quan, bắt sống 1 trung úy (Jeffrey). Trong số 25 sĩ quan, có 2 đại tá (De Sérigné và Patruit). Sau trận đánh, Đại tá Talès - Chỉ huy trưởng Đồng Nai Thượng đã tự sát vì sợ trách nhiệm.
Điện thoại: 0918. 154511 - hoặc: 0977. 120048
Email: vutuantrinh@moet.edu.vn hoặc trinhvt@leloi.sgdbinhduong.edu.vn
Địa chỉ: Số 03, đường Tân Thành 37, khu phố 5, Thị trấn Tân Thành, huyện Bắc Tân Uyên, tỉnh Bình Dương.