An ninh phi truyền thống là một khái niệm mới xuất hiện và được bàn đến khá nhiều trong thời gian gần đây; là vấn đề của thế giới hiện đại, xuất hiện trong giai đoạn cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI, trong bối cảnh thế giới có nhiều biến động, diễn biến phức tạp; đặc biệt, kể từ sau sự kiện khủng bố ngày 11-9-2001 tại nước Mỹ, khái niệm này xuất hiện nhiều và dần trở nên phổ biến. Trong bối cảnh hội nhập quốc tế, toàn cầu hóa và cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư(1), ANPTT là khái niệm động, thay đổi tùy thuộc vào cách thức tiếp cận, chủ yếu sử dụng để phân biệt với an ninh truyền thống, dùng để chỉ các mối đe dọa, thách thức phi truyền thống đối với an ninh quốc gia, dân tộc, cộng đồng và sự ổn định của mỗi con người, có nguồn gốc phi quân sự từ các tác nhân, chủ thể phi nhà nước(2).
Sự xuất hiện thuật ngữ “an ninh phi truyền thống” gắn với quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế trên thế giới, nhấn mạnh sự “rút ngắn” về thời gian và không gian, khiến cho không một quốc gia nào có thể biệt lập với phần còn lại của thế giới, mà các quốc gia phụ thuộc và tác động qua lại lẫn nhau(3), tạo nên hiệu ứng “dồn nén thời gian và không gian”(4). Sự “mờ đi” của biên giới quốc gia với các tiến bộ khoa học - công nghệ đã xuất hiện nhiều vấn đề, như “biên giới mềm”, “không gian ảo”, “tội phạm phi truyền thống”, “rô-bốt phạm tội”... làm cho vấn đề bảo vệ an ninh quốc gia, an ninh quốc tế và quyền con người trở lên quan trọng hơn bao giờ hết.
Sự xuất hiện ngày càng nhiều những vấn đề có tính toàn cầu, xuyên biên giới đe dọa các quốc gia và cộng đồng quốc tế, từ ô nhiễm môi trường, biến đổi khí hậu, an ninh môi trường, dịch bệnh..., đến vấn đề tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia, khủng bố, tội phạm mạng. Đối mặt với những mối đe dọa này, các quốc gia không thể đơn phương giải quyết được, mà cần có sự hợp tác, tham gia của nhiều đối tác khác nhau, vì ANPTT có tính xuyên quốc gia thì không thể không giải quyết cùng song hành của tất cả các quốc gia. Vì thế, mô hình “an ninh truyền thống” do nhà nước nắm vai trò chủ đạo bị thách thức bởi bối cảnh thế giới mới. Điều này dẫn tới nhận thức mới về an ninh, trong đó có vấn đề ANPTT, cũng như là bài toán đòi hỏi mỗi quốc gia, khu vực và quốc tế cần xây dựng chính sách, hoàn thiện hệ thống pháp luật có tính tương thích quốc tế cao và tạo cơ sở pháp lý vững chắc trong đấu tranh phòng, chống tội phạm, để thích ứng và xử lý, giải quyết kịp thời không chỉ vấn đề an ninh truyền thống mà cả vấn đề ANPTT. An ninh phi truyền thống là trạng thái an ninh trong đó đòi hỏi việc bảo đảm sự an toàn, ổn định của mỗi con người, cũng như các quốc gia, dân tộc và cộng đồng quốc tế khỏi sự nguy hiểm gây ra bởi những mối đe dọa dưới dạng là các tội phạm phi truyền thống có nguồn gốc phi quân sự từ bất kỳ tác nhân, chủ thể phi nhà nước nào.
Thuật ngữ an ninh phi truyền thống (ANPTT) bắt đầu được nói đến vào những năm 80 của thế kỷ XX, sử dụng nhiều trong thập niên đầu thế kỷ XXI, ANPTT trở thành một thuật ngữ phổ biến trong các hội nghị, diễn đàn khu vực, quốc tế, hợp tác song phương, đa phương giữa các quốc gia, các tổ chức cũng như các chủ thể khác trong quan hệ quốc tế đương đại. Tuy nhiên, trên thế giới hiện nay có khá nhiều cách hiểu, quan niệm về ANPTT. Tùy thuộc vào cách nhìn nhận, góc độ, lĩnh vực tiếp cận, hoàn cảnh cụ thể mà từng nhà nghiên cứu đưa ra quan niệm khác nhau về ANPTT. Theo Giáo sư Mely Caballero Anthony, Tổng Thư ký Liên minh các cơ sở nghiên cứu về ANPTT ở châu Á: ANPTT là đề cập đến sự chuyển hướng khỏi trọng tâm quân sự, nhà nước của các mô hình ANTT; và các vấn đề ANPTT là các thách thức đối với sự tồn vong và thịnh vượng của con người và các nhà nước, xuất hiện chủ yếu trong các nguồn phi quân sự, chẳng hạn như biến đổi khí hậu, nguồn tài nguyên cạn kiệt, bệnh truyền nhiễm, thiên tai, di cư trái phép, tình trạng thiếu lương thực, đưa người di cư trái phép, buôn bán ma túy trái pháp luật và tội phạm xuyên quốc gia. Những mối nguy hiểm này thường xuyên quốc gia về phạm vi, bất chấp các biện pháp khắc phục đơn phương và đòi hỏi sự ứng phó toàn diện cả chính trị, kinh tế, xã hội, cũng như sử dụng lực lượng quân sự nhân đạo.
Tại Hội nghị Thượng đỉnh lần thứ sáu giữa các nước thuộc Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) và Trung Quốc, ngày 01 tháng 11 năm 2002, cụm từ ANPTT chính thức xuất hiện trong Tuyên bố chung ASEAN - Trung Quốc về hợp tác trên lĩnh vực ANPTT và thống nhất rằng: Các vấn đề ANPTT như buôn bán ma túy bất hợp pháp, mua bán người bao gồm mua bán phụ nữ và trẻ em, cướp biển, khủng bố, buôn lậu vũ khí, rửa tiền, tội phạm kinh tế quốc tế và tội phạm mạng, đã trở thành những yếu tố bất ổn quan trọng ảnh hưởng đến an ninh khu vực, quốc tế và đang đặt ra những thách thức mới đối với hòa bình, ổn định của khu vực và quốc tế. Theo quan điểm của Liên hợp quốc, ANPTT gồm 10 mối đe dọa: (1) khủng bố, (2) ma túy, (3) hải tặc, (4) rửa tiền, (5) tin tặc, (6) thảm họa môi trường, dịch bệnh, mua bán người, (9) di cư trái phép và (10) cực đoan dân tộc, tôn giáo. Sau đó, ANPTT được sử dụng rộng rãi, phổ biến trên nhiều diễn đàn quốc tế thảo luận về các vấn đề chính trị, an ninh, quốc phòng, kinh tế, xã hội; trong chiến lược quốc phòng, an ninh của nhiều quốc gia - dân tộc, cũng như trong hợp tác an ninh của nhiều khu vực và thế giới. Theo tuyên bố, những vấn đề ANPTT đang ngày càng gia tăng là: Ô nhiễm môi trường, thiên tai, dịch bệnh, di cư tự do, tội phạm xuyên quốc gia, khủng bố, ma túy, buôn bán người, buôn lậu vũ khí, rửa tiền, tội phạm kinh tế quốc tế, tội phạm công nghệ cao...
Đối với nước ta, trước Đại hội XI, Đảng Cộng sản Việt Nam tuy chưa chính thức sử dụng khái niệm ANPTT nhưng đã từng chỉ ra những dấu hiệu, những vấn đề của ANPTT. Đại hội VIII của Đảng cho rằng: “Thế giới đứng trước nhiều vấn đề có tính toàn cầu (bảo vệ môi trường, hạn chế sự bùng nổ về dân số, phòng ngừa và đẩy lùi những bệnh tật hiểm nghèo...), không một quốc gia nào có thể tự giải quyết, mà phải có sự hợp tác đa phương”[I]. Đại hội IX của Đảng tiếp tục khẳng định và bổ sung thêm vấn đề chống tội phạm quốc tế vào nội dung này. Đại hội X bổ sung và phát triển: “Nhiều vấn đề toàn cầu bức xúc đòi hỏi các quốc gia và các tổ chức phối hợp giải quyết; khoảng cách chênh lệch giữa các nhóm nước giàu và nước nghèo ngày càng lớn; sự gia tăng dân số cùng với các luồng di cư; tình trạng khan hiếm nguồn năng lượng, cạn kiệt tài nguyên, môi trường tự nhiên bị hủy hoại; khí hậu diễn biến ngày càng xấu, kèm theo những thiên tai khủng khiếp; các dịch bệnh lớn, các tội phạm xuyên quốc gia có chiều hướng tăng”[II].
Tại Đại hội XI, Đảng ta chính thức sử dụng khái niệm ANPTT với các vấn đề được chỉ ra, như: chống khủng bố, bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu, hạn chế bùng nổ dân số, phòng ngừa và hạn chế dịch bệnh hiểm nghèo. Đại hội XII của Đảng chỉ ra một số vấn đề toàn cầu như: An ninh tài chính, an ninh năng lượng, an ninh nguồn nước, an ninh lương thực, biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh, an ninh mạng, xung đột sắc tộc, tôn giáo, khủng bố. Đồng thời, có lưu ý đến “các hình thái chiến tranh kiểu mới” với hàm ý khả năng chuyển hóa giữa ANPTT và ANTT. Có thể hiểu: ANPTT là một loại hình an ninh xuyên quốc gia do những yếu tố phi chính trị và phi quân sự gây ra, có ảnh huởng trực tiếp đến sự ổn định, phát triển về an ninh của mỗi nước, cả khu vực và toàn cầu.
Tính chất nguy hiểm của các mối đe dọa ANPTT không chỉ biểu hiện ở mức độ hủy hoại, sự tàn phá của nó đối với cuộc sống của con người, mà còn đặt ra nhiều thách thức đối với sự ổn định xã hội, sự tồn vong của cả cộng đồng, hiệu quả thực tế của hợp tác và hội nhập toàn cầu; thậm chí còn làm nảy sinh các vấn đề về an ninh quân sự. Các thảm họa thiên nhiên, động đất, sóng thần, bão lụt, dịch bệnh, cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên... ngày càng thách thức các thành tựu của khoa học, kỹ thuật hiện đại và khả năng, nỗ lực của con người. Khủng bố, tội phạm xuyên quốc gia, tội phạm công nghệ cao, những vấn đề tài chính, an ninh năng lượng, an ninh lương thực... đang thử thách nghiệt ngã năng lực điều hành của các chính phủ, sự vững chắc của các thể chế chính trị và các nền kinh tế, kể cả nền kinh tế giàu mạnh nhất, cũng như tính khả thi, bền vững của các liên kết quốc tế.
Nội hàm của vấn đề ANPTT mang tính chất “động” và cùng với thời gian, có thể tiếp tục được mở rộng hơn, không phải ngẫu nhiên mà cách đặt vấn đề về ANPTT của các quốc gia, khu vực và cộng đồng có những điểm khác nhau nhất định. Việc xác định những vấn đề cụ thể nào đó trong nội hàm của vấn đề ANPTT chỉ mang ý nghĩa tương đối, nhằm phục vụ cho việc hoạch định, xây dựng chính sách, chiến lược an ninh của đất nước và những cam kết an ninh song phương, đa phương trong hợp tác, liên kết quốc tế, mặt khác là để so sánh sự khác biệt với vấn đề ANTT của từng quốc gia cũng như từng khu vực và trên toàn thế giới. Nghiên cứu về ANPTT cho thấy nổi lên một số đặc điểm sau: Mang tính xuyên quốc gia rõ nét, mang tính phi chính phủ, có sự chồng lấn tương đối giữa thách thức ANTT và ANPTT, mang tính toàn cầu, có tính chất bạo lực và tính chất phi bạo lực. ANPTT là sự mở rộng trong nội hàm và ngoại diên của khái niệm ANTT và khái niệm an ninh quốc gia. Thực tế những vấn đề ANPTT đã diễn biến hoặc phát sinh từ lâu nhưng hiện nay lại có những đặc điểm mới và được coi là một loại uy hiếp an ninh mới như chủ nghĩa khủng bố, di dân phi pháp, thiếu hụt tài nguyên nước, môi trường sinh thái, buôn lậu ma túy... đang toàn cầu hóa, mạng lưới hóa với phương thức, thủ đoạn hoạt động, hậu quả có nhiều khác biệt so với trước đây.
Về mối quan hệ giữa ANPTT và ANTT. Trong từng lĩnh vực cụ thể, giữa các vấn đề ANTT và ANPTT có sự tác động, đan xen lẫn nhau. Tuy nhiên, cần nhận thức rõ về sự khác nhau trên một số phương diện chính giữa ANTT và ANPTT như sau: ANTT nhấn mạnh đến bảo đảm an ninh quốc gia bằng sử dụng biện pháp quân sự là chủ yếu, các biện pháp chính trị, ngoại giao chỉ mang tính chất hỗ trợ; thì biện pháp đảm bảo ANPTT đa dạng hơn và chủ yếu mang tính chất phi quân sự, với hợp tác, phối hợp hành động; thúc đẩy phát triển kinh tế, tiến bộ và công bằng xã hội, thực hiện an sinh xã hội... ANTT lấy chủ quyền quốc gia làm trung tâm, nhấn mạnh đến các mối đe dọa có nguồn gốc từ bên ngoài; còn ANPTT lấy con người làm trung tâm, nhấn mạnh đến việc bảo đảm cho mỗi cá nhân trong cộng đồng được hưởng các quyền cơ bản và điều kiện thuận lợi để phát triển năng lực của mình. Vì vậy, nguy cơ ANPTT có thể đến từ cả bên ngoài lẫn bên trong, trong đó nhấn mạnh những mối đe dọa từ bên trong mỗi quốc gia. Đồng thời, trong một điều kiện nhất định ANPTT và ANTT có thế chuyển hóa lẫn nhau, điển hình như các vấn đề dân tộc thiểu số, xung đột tôn giáo, khủng hoảng kinh tế... trong nội bộ một nước có thể vượt qua biên giới quốc gia và lan tỏa ra bên ngoài, trở thành vấn đề xuyên quốc gia, mang tính toàn cầu, ảnh hưởng đến sự ổn định và an ninh của nước khác, khu vực khác. ANPTT và ANTT cùng tác động ảnh hưởng đến việc xây dựng chiến lược và chính sách an ninh của mỗi quôc gia nhằm ứng phó với những uy hiếp và thách thức mà ANTT và ANPTT cấu thành.
Vấn đề ANPTT được Đảng ta nhận thức từ rất sớm và thể hiện trong Nghị quyết số 08/NQ-TW, ngày 17-12-1998, của Bộ Chính trị khóa VIII, cảnh báo và chỉ ra các yếu tố thách thức đối với an ninh quốc gia, trong đó có vấn đề ANPTT. Tiếp đó, vấn đề ANPTT tiếp tục được đề cập, nêu rõ trong nội dung các văn kiện Đại hội XI, XII của Đảng. Đặc biệt, Đại hội XIII của Đảng năm 2021 đã tiếp tục khẳng định nhận thức, quan điểm nhất quán về nội dung, thách thức của ANPTT đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay. Đại hội nhấn mạnh: “Những vấn đề toàn cầu như: bảo vệ hòa bình, an ninh con người, thiên tai, dịch bệnh, an ninh xã hội và an ninh phi truyền thống, nhất là an ninh mạng, biến đổi khí hậu, nước biển dâng, ô nhiễm môi trường... tiếp tục diễn biến phức tạp”(5), “Những vấn đề an ninh phi truyền thống ngày càng đa dạng, phức tạp, tác động mạnh mẽ”(6), từ đó, đề ra nhiệm vụ “sẵn sàng ứng phó hiệu quả các thách thức an ninh truyền thống và an ninh phi truyền thống”(7)...; bảo đảm an ninh kinh tế, an ninh thông tin truyền thông, an ninh mạng và an ninh xã hội. Kịp thời đấu tranh trấn áp có hiệu quả các loại tội phạm, nhất là tội phạm có tổ chức, xuyên quốc gia, tội phạm sử dụng công nghệ cao. Chủ động phối hợp với các quốc gia bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc; xử lý các vấn đề ANPTT, tạo vành đai bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa. “Tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật về quốc phòng, an ninh phù hợp với hội nhập quốc tế và yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới”(8).
Đại hội XIII của Đảng đặt ra nhiệm vụ phải ứng phó với các mối đe dọa ANPTT và một trong các giải pháp là hoàn thiện chính sách, pháp luật, bởi lẽ, ngoài các mối đe dọa ANPTT có thể khiến một quốc gia, thể chế, chế độ lung lay, bất ổn, sụp đổ, tiêu vong mà không cần bất kỳ một hoạt động chiến tranh quân sự nào; cùng với đó, nhiều nội dung của ANPTT còn ảnh hưởng đến tất cả các nước, trong khu vực hay trên toàn thế giới, như vấn đề an ninh môi trường, dịch bệnh truyền nhiễm... không chỉ ảnh hưởng đến một quốc gia mà có thể lan tràn, ảnh hưởng đến nhiều quốc gia khác. Đặc biệt, các mối đe dọa của ANPTT thậm chí được chuyển hóa dẫn đến các vấn đề an ninh truyền thống, an ninh quân sự bởi đặc tính “lan tỏa nhanh” và “xuyên quốc gia”(9).
Các mối đe dọa ANPTT tập trung vào hai nhóm chính sau:
- Nhóm về các quá trình, hiện tượng tự nhiên và xã hội bất lợi đến xã hội, như hiệu ứng nhà kính, biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh truyền nhiễm, ô nhiễm môi trường, cạn kiệt tài nguyên, khoáng sản, di cư bất hợp pháp...; tương ứng với từng lĩnh vực an ninh trọng yếu (an ninh môi trường, an ninh kinh tế, an ninh lương thực, an ninh nguồn nước, an ninh dân số...).
- Nhóm về các hành vi tiêu cực (phạm pháp) do cá nhân hoặc pháp nhân (tổ chức) thực hiện ảnh hưởng bất lợi đến xã hội, như khủng bố, tội phạm xuyên quốc gia (rửa tiền, cướp biển, buôn bán trái phép chất ma túy, buôn bán người, vũ khí), tội phạm công nghệ cao...; tương ứng còn gọi là tội phạm phi truyền thống. Đây cũng chính là cách tiếp cận của PLHS về vấn đề ANPTT và là mối đe dọa hàng đầu đến con người, an ninh quốc gia, an ninh quốc tế và xã hội không chỉ của một quốc gia mà là toàn thế giới.
Hai trường phái quan niệm về an ninh phi truyền thống
Có thể liệt kê nhiều hơn nữa các quan niệm rất phong phú, đa dạng của giới nghiên cứu trong nước và quốc tế, nhưng tựu trung, các quan niệm nêu trên có thể xếp theo hai trường phái:
Trường phái thứ nhất: quan niệm an ninh phi truyền thống là an ninh tổng hợp, bao gồm an ninh quân sự, chính trị, kinh tế, xã hội, môi trường. An ninh phi truyền thống không đối lập với an ninh truyền thống mà là mở rộng nội hàm của khái niệm an ninh truyền thống - vốn lấy an ninh quân sự làm trung tâm. Căn cứ xuất phát của quan niệm này là do tính tương đối của an ninh phi truyền thống, một mối đe dọa an ninh phi quân sự có thể chuyển hóa thành xung đột vũ trang, chiến tranh.
Trường phái thứ hai: quan niệm an ninh phi truyền thống đối lập với an ninh truyền thống, không bao hàm an ninh quân sự. Trường phái thứ hai rõ ràng hơn về mặt ngữ nghĩa, nhưng cũng thừa nhận, các vấn đề an ninh phi truyền thống có thể dẫn tới xung đột, chiến tranh. Ở Việt Nam, quan điểm chính thống và quan niệm của hầu hết các học giả theo cách tiếp cận của trường phái thứ hai, tức quan niệm an ninh phi truyền thống là đối lập với an ninh truyền thống, tức không bao gồm các lĩnh vực an ninh quân sự.
2. An ninh phi truyền thống - những thách thức từ cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư
Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư (The Fourth Industrial Revolution) đã và đang diễn ra một cách nhanh chóng chưa từng có trong lịch sử từ năm 2011 với đặc trưng là điều khiển hệ và Robot; các hệ thống liên kết thế giới thực và thế giới ảo do Sự đột phá của khoa học công nghệ dựa trên nền tảng công nghệ số tích hợp công nghệ “thông minh” để tối ưu hóa quy trình, phương thức sản xuất. Điểm “đòn bẩy” là AI (trí tuệ nhân tạo); công nghệ in 3D, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới, công nghệ tự động hóa, Robot, công nghệ kết nối vạn vật (IoT) và Internet các dịch vụ (IoS). Đặc trưng của Cách mạng lần thứ tư là các hệ thống sản xuất thực - ảo (Cyber-Physical Systems), lần đầu tiên được tiến sĩ Jame Truchat, Giám đốc điều hành của National Instrument đưa ra vào năm 2006, trong đó thiết bị thông minh làm việc với nhau qua mạng không dây hoặc qua “đám mây”. Nó là tập hợp bao gồm internet vạn vật (IOT), hệ thống vật lý không gian mạng, hệ thống trí thông minh nhân tạo...
Qui mô, tốc độ phát triển chưa từng có trong lịch sử, theo cấp số nhân, tác động to lớn về kinh tế và môi trường sinh thái. Tiêu chí tốc độ lan truyền của công nghệ được sử dụng đạt ngưỡng 50 triệu người (Điện thoại 75 năm, radio cần 38 năm, tivi cần 13 năm, Internet chỉ cần 4 năm, Facebook cần 3,5 năm). Về kinh tế tác động đến tiêu dùng, sản xuất, năng xuất và giá cả. Bản đồ kinh tế thế giới, bản đồ sức mạnh của các doanh nghiệp cũng đang được vẽ lại. Ví dụ: Công nghệ in 3D trị giá 3,1 tỷ USD/năm tăng 35% so với năm 2012; tăng trung bình 32% đạt 21 tỷ USD vào năm 2020… Thời đại công nghệ số 4.0 đang diễn ra dưới hình thái cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư với quy mô tác động là tất cả các ngành nghề, lĩnh vực, xã hội, nền kinh tế của nhân loại. Tác động cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, ANPTT tạo ra những nguy cơ thách thức sau:
Cạnh tranh việc làm. Theo Diễn đàn Kinh tế thế giới đến năm 2025, người sử dụng lao động sẽ phân chia công việc giữa con người và máy móc một cách gần như bình đẳng 50-50. Công nghệ sẽ thay đổi nhiệm vụ, công việc và kỹ năng vào năm 2025. Khoảng 43% doanh nghiệp được khảo sát cho biết rằng họ sẽ giảm lực lượng lao động vì áp dụng công nghệ, 34% có kế hoạch tuyển dụng lực lượng lao động mới do tích hợp công nghệ. Các ngành nghề mới nổi phản ánh nhu cầu lớn hơn về việc làm trong nền kinh tế xanh, vai trò đi đầu trong nền kinh tế dữ liệu và AI và các vai trò mới trong kỹ thuật, điện toán đám mây và phát triển sản phẩm.
Thay đổi phương thức quản trị, quan hệ quốc tế đến cách thức quản trị quốc gia xử lý những vấn đề mâu thuẫn nội bộ. Khoa học, công nghệ ngày càng tác động trực tiếp, sâu rộng vào sản xuất, đời sống con người và xã hội; càng đích thực là lực lượng sản xuất số một của đại công nghiệp toàn cầu, trong đó tác động đến việc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Trong bối cảnh đó, việc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền sẽ cần tới những duy mới, sáng tạo, những chính sách, giải pháp đột phá và hiệu quả, bảo đảm cho Nhà nước luôn thích ứng với bối cảnh tình hình mới, kịp thời đề ra và thực hiện những chủ trương, chính sách, pháp luật và giải pháp đúng, phát huy mọi nguồn lực, tận dụng thời cơ để phát triển và kịp thời ứng phó với những khó khăn, thách thức xảy ra.
Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư với việc phát triển của công nghệ số, kinh tế số, AI (trí tuệ nhân tạo), IOT (Internet vạn vật), năng lượng tái tạo, công nghệ sinh học, công nghệ số... Báo cáo chính trị Đại hội XIII nhấn mạnh: “Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, nhất là công nghệ số phát triển mạnh mẽ, tạo đột phá trên nhiều lĩnh vực, tạo ra cả thời cơ và thách thức đối với mọi quốc gia, dân tộc”[III]. Nhận định mới này rất quan trọng trong việc định hướng cho nhà nước pháp quyền tận dụng thời cơ do những thành tựu của cuộc cách mạng này đem lại, đồng thời vượt qua những khó khăn, thách thức để quản trị và phát triển các quốc gia theo hướng tăng tốc, đi tắt, đón đầu.
Quan hệ quốc tế vì thế cũng có nhiều biến động. Cạnh tranh chiến lược nước lớn cũng trở nên gay gắt hơn giữa những nước đi đầu về khoa học, công nghệ; các nước lớn đều lấy việc làm chủ khoa học, công nghệ hiện đại làm cơ sở để xác lập địa vị của mình trong trật tự quốc tế, điều này đang gây biến động đáng kể đối với cục diện thế giới, khu vực.
Tác động lên chính quyền. Xuất hiện mô hình chính phủ trí tuệ nhân tạo (AI-Government), tiến đến 100 năm Liên hợp quốc (2045), Bàn tròn UN 2045 do Ramu Damodaran Tổng giám đốc Academic Impact của Liên hợp quốc, Tổng biên tập Tạp chí Biên niên sử Liên hợp quốc và cha đẻ Internet Vint Cerf thảo luận về mô hình mới con người hướng tới: “kinh tế trọng tâm vì con người, hệ sinh thái Internet và trí tuệ nhân tạo mới cho công việc và cuộc sống”. Nội hàm Thành phố xã hội Trí tuệ nhân tạo (AIWS City) trong mô hình Thành phố thông minh (Smart city). Khả năng thích ứng với công nghệ mới của các cơ quan công quyền sẽ quyết định năng lực quản lý của họ. Chính quyền và các cơ quan quản lý của mình sẽ cần phối hợp chặt chẽ với doanh nghiệp và các hội, hiệp hội và người dân.
Tác động đối với con người (tồn tại con người). Sự phát triển của khoa học, công nghệ và áp dụng vào sản xuất và đời sống xã hội nguy cơ gia tăng nạn thất nghiệp, chênh lệch trình độ phát triển, chênh lệch giàu nghèo, xuất hiện mâu thuẫn xã hội trong thời đại Internet… đặt ra nhiều thách thức mới về đời sống và an ninh, an toàn xã hội và con người. Về sinh học, xã hội và tinh thần đặt ra những yêu cầu mới. Theo dòng chảy của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, trí tuệ nhân tạo ngày càng được phổ biến và ứng dụng rộng rãi trong mọi lĩnh vực của cuộc sống. Trí tuệ nhân tạo có khả năng tự thích nghi, tự học và tự phát triển, tự đưa ra các lập luận để giải quyết vấn đề, có thể giao tiếp như người… Trong khuôn khổ khóa họp lần thứ 48 Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc (LHQ) kéo dài 4 tuần (13/9 - 8/10/2021), Cao ủy Nhân quyền LHQ Michelle Bachelet nhấn mạnh nhu cầu khẩn cấp về việc cấm mua bán và sử dụng các hệ thống trí tuệ nhân tạo (AI) có nguy cơ nghiêm trọng đối với nhân quyền cho đến khi các biện pháp bảo vệ thích hợp được thực thi. Bà Bachelet cũng kêu gọi cấm các ứng dụng AI không được sử dụng nếu không tuân thủ luật nhân quyền quốc tế.
Tác động lên báo chí, truyền thông. Không gian mạng là mạng lưới kết nối toàn cầu của các cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin, bao gồm Internet, các mạng viễn thông, các hệ thống máy tính, các hệ thống xử lý và điều khiển thông tin, cơ sở dữ liệu, là nơi con người có thể thực hiện hành vi xã hội không bị giới hạn bởi không gian và thời gian. Mặt tích cực là sự phong phú, đa dạng, muôn màu, muôn vẻ của các thông tin được cập nhật liên tục với lượng dữ liệu khổng lồ, giúp ích cho công chúng khai thác, tìm kiếm thông tin. Mặt tiêu cực là các thông tin xấu độc, trong đó rất đáng quan ngại là các quan điểm sai trái, thù địch, chống phá Đảng và chế độ. Với tính đặc thù, tự bản thân mạng Internet khó có thể kiểm soát, ngăn chặn các thông tin xấu độc.
Tác động đến quốc phòng, an ninh, đối ngoại, an ninh con người. Lợi dụng kết nối Internet để thực hiện tội phạm, thách thức trong quản trị không gian mạng và không gian (ảo): Drone, Flycam (vật thể không người lái). Xuất hiện những đột biến trên không gian ảo, kinh doanh đa cấp ảo, bong bóng đầu tư vào các loại tiền ảo, bitcoin gây tiềm ẩn khủng hoảng lan truyền tới thị trường tài chính toàn cầu mà chưa có các biện pháp kiểm soát hiệu quả. Nguy cơ ANPTT nổi lên với ý nghĩa vừa là mối đe dọa chung đối với loài người và khuyến khích nỗ lực hợp tác tập thể, vừa là phương tiện nhiều quốc gia lợi dụng để làm suy yếu lẫn nhau. Các mối đe dọa ANPTT ngày càng đa dạng và phức tạp, tốc độ và phạm vi ảnh hưởng rất nhanh chóng, tác động to lớn, trực tiếp, đa chiều đến mọi mặt đời sống xã hội.
Diễn biến của đại dịch Covid-19 (dịch bệnh). Đây là một trong những nguy cơ của ANPTT xảy ra quá bất ngờ, không được dự báo, không được chuẩn bị để ứng phó, thiệt hại quá nặng nề. Theo đánh giá của tổ chức Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) thiệt hại cho kinh tế thế giới mỗi tháng lên đến 375 tỷ USD và GDP toàn cầu thiệt hại 12 nghìn tỷ trong hai năm 2020 - 2021. Theo Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) thiệt hại do Covid-19 gây ra lớn gấp 4 lần so với khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008. Theo Giáo sư Joseph Nye (Đại học Havard Mỹ) - một trong 9 Giáo sư “sức mạnh mềm” của thế giới, “số người chết ở Mỹ cao hơn tổng số người chết của tất cả các cuộc chiến tranh từ năm 1945 đến nay”. Covid-19 làm gia tăng làn sóng tị nạn và nạn nghèo đói càng trở nên nghiêm trọng. Báo cáo của Liên hợp quốc đặc biệt nhấn mạnh đến nạn đói nghèo đối với phụ nữ toàn cầu tăng 9%, có thêm 47 triệu phụ nữ lâm vào cảnh đói nghèo. Giáo dục đào tạo bị tác động và ảnh hưởng nghiêm trọng do nhà trường đóng cửa, học sinh phải học trực tuyến, toàn cầu có khoảng 830 triệu học sinh không có máy tính và phương tiện để học trực tuyến.
Từ việc nghiên cứu các mối đe dọa ANPTT, được thể hiện trong văn kiện Đại hội XIII của Đảng, xác định tập trung vào tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia, tội phạm công nghệ cao, có thể nhận thấy những thách thức cụ thể đối với PLHS Việt Nam như sau:
Thứ nhất, an ninh phi truyền thống làm phát sinh hành vi nguy hiểm mới cho xã hội có tính xuyên quốc gia, đe dọa xâm phạm nghiêm trọng đến an ninh quốc gia, an ninh quốc tế và quyền con người hoặc vẫn là hành vi phạm tội nhưng với phương thức và thủ đoạn mới.
Hiện nay, do đối tượng xâm phạm chuyển từ an ninh biên giới, lãnh thổ, an ninh chính trị truyền thống sang các lĩnh vực an ninh mới như: an ninh con người, an ninh kinh tế, an ninh thông tin, an ninh môi trường nên vấn đề ANPTT đặt ra thách thức ở hai khía cạnh: Một là, làm phát sinh những hành vi nguy hiểm mới cho xã hội đòi hỏi phải tội phạm hóa kịp thời trong PLHS; Hai là, vẫn là hành vi phạm tội trong PLHS nhưng có phương thức và thủ đoạn mới liên quan đến đặc tính xuyên quốc gia như: khủng bố, rửa tiền, tội phạm công nghệ cao... (tội phạm phi truyền thống) với việc sử dụng thành tựu khoa học và công nghệ cao, cũng như những thành tựu vượt trội mà Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đem lại.
Có thể thấy, các quốc gia có hạ tầng kết nối mạng hiện đại và phổ biến sẽ có tỷ lệ tội phạm mạng rất cao, như ở Mỹ (23%), Trung Quốc (9%) hay Đức (6%). Trong tương lai, cơ cấu tỷ lệ tội phạm này sẽ có sự thay đổi, dịch chuyển và phân đều về nhóm các quốc gia đang phát triển, trong đó có Việt Nam, khi tỷ lệ người dùng in-tơ-nét ngày càng gia tăng. Tội phạm phi truyền thống là thách thức lớn nhất của ANPTT dưới góc độ PLHS trong thời kỳ an ninh mới. Phức tạp hơn, loại tội phạm này thường sử dụng thành tựu khoa học - công nghệ cao nên ẩn danh, khó phát hiện và việc xử lý dấu vết, truy tìm chứng cứ vô cùng khó khăn. Điều đáng quan ngại nữa ở loại tội phạm này là đa phần tội phạm trong nước liên kết với tội phạm người nước ngoài, hoạt động có tổ chức và mang tính quốc tế, xuyên quốc gia và rất chuyên nghiệp(10). Do đó, tội phạm phi truyền thống là hành vi nguy hiểm cho xã hội có nguồn gốc phi quân sự gây ra cho sự an toàn, ổn định của mỗi con người, cũng như các quốc gia, dân tộc và cộng đồng quốc tế được thực hiện một cách cố ý từ bất kỳ chủ thể phi nhà nước nào với đặc trưng mới về địa điểm, phương thức, thủ đoạn phạm tội và khách thể của tội phạm.
Chính vì vậy, “an ninh” như đã đề cập, là nhu cầu đầu tiên và thiết yếu của mỗi con người, mỗi quốc gia và toàn nhân loại; đồng thời, an ninh cũng là điều kiện cơ bản và quan trọng số một bảo đảm cho sự phát triển của mỗi quốc gia, mỗi con người, của từng tổ chức, của từng lĩnh vực hoạt động xã hội hoặc của toàn xã hội(11). Vì lẽ đó, PLHS Việt Nam phải ứng phó với thách thức trên (tội phạm hóa hoặc bổ sung phương thức, thủ đoạn mới của tội phạm).
Thứ hai, sự biến đổi về nhiều yếu tố, dấu hiệu của tội phạm, như phương thức, thủ đoạn phạm tội, phạm vi diễn ra và tác động của hành vi phạm tội... so với các tội phạm truyền thống.
Tội phạm phi truyền thống với tư cách là thách thức ANPTT có sự biến đổi thể hiện khác biệt với tội phạm truyền thống như sau:
- Tội phạm phi truyền thống thường có tính xuyên quốc gia. Một thực tế rõ ràng là hành vi phạm tội luôn là loại tội phạm xuyên quốc gia với đặc tính đa quốc gia của tội phạm, mà theo Công ước của Liên hợp quốc về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia năm 2000, tính chất xuyên quốc gia được biểu hiện ở một trong các yếu tố:
+ Thể hiện ở không gian diễn ra tội phạm đối với toàn bộ quá trình thực hiện tội phạm như: Tội phạm được thực hiện ở hai quốc gia trở lên; tội phạm được thực hiện ở một quốc gia nhưng việc chuẩn bị, lên kế hoạch, chỉ đạo hoặc điều khiển nó lại diễn ra ở một quốc gia khác.
+ Thể hiện ở phạm vi ảnh hưởng của tội phạm. Nếu đối với tội phạm không có tính chất xuyên quốc gia thì quốc gia nơi thực hiện tội phạm cũng chính là quốc gia nơi tội phạm gây ảnh hưởng. Trong khi đó, tội phạm xuyên quốc gia có thể được thực hiện ở một quốc gia nhưng có ảnh hưởng ở một hoặc nhiều quốc gia khác.
+ Thể hiện ở chủ thể thực hiện tội phạm. Đây là trường hợp việc thực hiện tội phạm liên quan đến một nhóm tội phạm có tổ chức tham gia các hoạt động phạm tội ở nhiều quốc gia khác nhau. Trường hợp chủ thể của tội phạm đơn thuần có quốc tịch khác với quốc gia nơi thực hiện tội phạm không thuộc loại tội phạm này mà chỉ là tội phạm có yếu tố nước ngoài.
- Tội phạm phi truyền thống đe dọa trật tự, an ninh ở phạm vi khu vực hoặc toàn thế giới. Do tính chất “xuyên quốc gia” nên tội phạm này có thể trực tiếp đe dọa trật tự, an ninh của một khu vực, của toàn thế giới hoặc chỉ uy hiếp an ninh của một cộng đồng, quốc gia nhưng về thời gian sau, hậu quả của nó sẽ lan tỏa vượt ra khỏi biên giới quốc gia. Trong khi đó, tội phạm truyền thống tập trung đe dọa đến an ninh quốc gia riêng lẻ. Vì vậy, việc phối hợp, cộng tác để ứng phó luôn được tất cả tổ chức quốc tế, khu vực đặt ra khi hợp tác song phương, đa phương và thông qua các hoạt động diễn tập, luyện tập...
- Phương pháp, thủ đoạn thực hiện tội phạm phi truyền thống thường thể hiện dưới dạng tội phạm có tổ chức, phạm tội có tính chuyên nghiệp rất cao. Thực tiễn cho thấy, buôn bán vũ khí, mua bán trái phép chất ma túy, buôn bán người, khủng bố, rửa tiền... hầu như không thể thực hiện bởi cá nhân đơn lẻ mà luôn được thực hiện bởi các tổ chức tội phạm và thường hoạt động xuyên quốc gia, thực hiện nhiều lần, còn được gọi là tội phạm có tổ chức. Hơn nữa, cách thức, thủ đoạn thực hiện các tội phạm ngày càng tinh vi, sử dụng thành tựu của khoa học - công nghệ cao.
Thứ ba, thách thức phát sinh các vấn đề về hiệu lực pháp luật, thẩm quyền xét xử và khả năng xử lý, giải quyết, phối hợp giữa các quốc gia khi có tội phạm xảy ra.
Mặc dù liên quan đến nhiều quốc gia, đe dọa trật tự, an ninh của các quốc gia liên quan, của khu vực hoặc toàn thế giới nhưng trách nhiệm pháp lý đối với tội phạm phi truyền thống được xác định trên cơ sở pháp luật quốc gia chứ không phải pháp luật quốc tế và thẩm quyền xét xử đối với các tội phạm này thuộc về quốc gia riêng lẻ mà không thuộc về một tòa án quốc tế nào. Sở dĩ như vậy bởi khách thể của chúng là những giá trị được bảo vệ bởi pháp luật quốc gia chứ không phải các giá trị được luật quốc tế xác lập, bảo vệ như quyền dân tộc, hòa bình thế giới...
Như vậy, trách nhiệm pháp lý theo pháp luật quốc gia, thẩm quyền xét xử thuộc tòa án quốc gia riêng lẻ nhưng phạm vi hoạt động, tác động của tội phạm phi truyền thống lại xuyên quốc gia nên liên quan đến tội phạm này rất dễ xảy ra hiện tượng “chồng lấn” về hiệu lực của BLHS và tranh chấp thẩm quyền xét xử giữa các quốc gia liên quan nếu không được điều chỉnh rõ ràng. Theo nguyên tắc tôn trọng chủ quyền quốc gia, các văn kiện quốc tế chỉ quy định nghĩa vụ tội phạm hóa hoặc khuyến nghị việc tội phạm hóa các hành vi chứ không bao giờ thiết lập một mô tả cấu thành bắt buộc các quốc gia sao chép khi nội luật hóa văn kiện quốc tế đó(12). Bên cạnh đó, để tiến hành hoạt động phạm tội với quy mô lớn, các tổ chức tội phạm thường mua chuộc, hối lộ và lôi kéo một số nhà lãnh đạo nước ngoài nhằm dung túng, bao che cho các hoạt động phạm tội của tổ chức mình(13). Nhờ đó, các nhóm tội phạm xuyên quốc gia có thể thuận lợi hình thành và mở rộng các mạng lưới mua bán trái phép chất ma túy, buôn bán người, rửa tiền... Ngoài ra, chúng lại tiếp tục triển khai các hoạt động để nâng cao năng lực tài chính, mạng lưới ra bên ngoài, như tiến hành đầu tư, cho vay, liên kết kinh doanh nhằm che giấu thu nhập từ việc phạm tội mà có, qua đó tạo thành “bức bình phong” vững chắc cho các hoạt động phạm tội.
Vì vậy, đánh giá về mức độ khó khăn trong công tác đấu tranh với tội phạm thì chắc hẳn mức độ của tội phạm phi truyền thống xuyên quốc gia cao hơn nhiều so với tội phạm trong nội bộ quốc gia. Bởi lẽ, do địa bàn hoạt động của tội phạm vượt ra ngoài ranh giới lãnh thổ - xuyên quốc gia nên chỉ với các quốc gia riêng lẻ thì rất khó hay chính xác là không thể điều tra, thu thập chứng cứ xác định tội phạm, cũng như nguyên nhân, điều kiện phạm tội. Sự câu kết, di chuyển xuyên quốc gia của các chủ thể thực hiện tội phạm tạo ra thách thức lớn cho các lực lượng chức năng trong việc phát hiện, bắt giữ. Cùng với đó, phạm vi tác động của tội phạm ở tầm liên quốc gia nên việc xác định đầy đủ, kịp thời các thiệt hại để ngăn chặn, khắc phục không nhanh chóng như các đối với các tội phạm khác...
Những thách thức trên cùng với các thách thức trong từng lĩnh vực an ninh trọng yếu tạo ra mối đe dọa đến an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội và quyền con người, đòi hỏi phải đặt ra yêu cầu hoàn thiện PLHS Việt Nam và giải pháp ứng phó.
Để pháp luật hình sự Việt Nam tham gia có hiệu quả vào quản trị các thách thức an ninh phi truyền thống
Đại hội XIII của Đảng đề ra nhiệm vụ sẵn sàng ứng phó hiệu quả các thách thức an ninh truyền thống và ANPTT; kịp thời đấu tranh trấn áp có hiệu quả các loại tội phạm, nhất là tội phạm có tổ chức, xuyên quốc gia, tội phạm sử dụng công nghệ cao. Vì vậy, PLHS Việt Nam phải đáp ứng được các yêu cầu sau:
Một là, kịp thời tội phạm hóa trong các quy định pháp luật những hành vi nguy hiểm mới phát sinh trong xã hội.
Yêu cầu của PLHS Việt Nam là kịp thời tội phạm hóa những hành vi nguy hiểm cho xã hội có tính nguy hiểm cao, uy hiếp an ninh của con người và cộng đồng dân cư, dân tộc và nhân loại. Đây cũng chính là sự đòi hỏi của quá trình toàn cầu hóa, các mối đe dọa buộc các nước, trong đó có Việt Nam cần điều chỉnh kịp thời pháp luật mang tính thích ứng với chuẩn mực quốc tế, trong đó có việc tội phạm hóa nhằm xử lý hiệu quả những hành vi nguy hiểm mới, có tính chất xuyên quốc gia, có tổ chức, đặc biệt là trong thời kỳ toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, như hành vi thành lập tổ chức vũ trang trái phép, hành vi gây dựng hoặc tham gia tổ chức phạm tội, hành vi tổ chức các hội cực đoan, tấn công vào người hay tổ chức được luật pháp quốc tế bảo vệ, hành vi sử dụng vũ khí sinh học gây thảm họa cho con người.
Hai là, thay đổi nhận thức về những vấn đề mới trong PLHS.
Quan niệm truyền thống về các yếu tố, dấu hiệu trong cấu thành tội phạm của PLHS cần phải được thay đổi để phù hợp với tính phi truyền thống của hành vi nguy hiểm cho xã hội hoặc của hành vi phạm tội trong điều kiện mới. Theo quan niệm truyền thống, chủ thể của tội phạm thường là các cá nhân đơn lẻ hoặc các cá nhân cấu kết trong băng nhóm tội phạm, nhưng ở loại tội phạm phi truyền thống thì chủ thể của tội phạm, ngoài những đối tượng truyền thống đó, còn có thể là pháp nhân đang hoạt động hợp pháp hay các tổ chức tội phạm với đông đảo thành viên hoạt động ở nhiều khu vực, nhiều quốc gia khác nhau. Thậm chí, trong tương lai, chủ thể của tội phạm còn có thể là thực thể AI(14) hoặc chủ thể này cùng với cả cá nhân, pháp nhân. Cho nên, PLHS phải thường xuyên cập nhật, theo kịp với những thay đổi của tình hình tội phạm và thực tiễn xã hội.
Cũng trong quan niệm truyền thống, nơi (địa điểm) thực hiện, nơi xảy ra hậu quả của tội phạm phải là một địa điểm cụ thể nào đó nhưng ở tội phạm phi truyền thống thì những điều đó có thể diễn ra ở một không gian mạng (không gian ảo). Ngoài những thiệt hại là các giá trị vật chất, tinh thần như tội phạm truyền thống, tội phạm phi truyền thống còn có thể gây ra những thiệt hại bằng các giá trị ảo (các loại tài sản ảo mà việc thừa nhận và quy chế pháp lý còn khác biệt ở các quốc gia) và thiệt hại “xuyên quốc gia”. Bên cạnh đó, nhiều cá nhân, tổ chức và các thế lực bên ngoài và số đối tượng chống đối chính trị trong nước đã sử dụng không gian mạng để tiếp tục liên kết trong - ngoài, tăng cường lôi kéo, kích động, gây rối an ninh, trật tự, tuyên truyền chống phá an ninh đất nước.
Ngoài ra, nếu phương thức, thủ đoạn phạm tội truyền thống phổ biến là hành vi có tính chất bạo lực hoặc hành vi công khai chống đối, còn đối với tội phạm phi truyền thống hành vi rất tinh vi, có thể đi kèm với ứng dụng công nghệ - khoa học ở trình độ cao hoặc núp bóng các hoạt động công khai, hợp pháp và do các đối tượng am hiểu sâu sắc về kinh tế, nghiệp vụ tài chính, ngân hàng... thậm chí, các đối tượng đã sử dụng AI và những thành tựu của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư để phạm tội... như với sự phát triển của dữ liệu lớn (Big-Data) đã xuất hiện mối lo ngại về quản lý, bảo mật thông tin, hệ thống nhận diện khuôn mặt có thể bị lạm dụng dẫn tới vi phạm quyền riêng tư, xâm phạm an ninh mạng, an ninh quốc gia, khủng bố. Hay sự phát triển của nền kinh tế chia sẻ (Sharing economy) cũng đang đặt ra nhiều thách thức đối với các nhà quản lý, như vấn đề kiểm soát việc minh bạch về thông tin; quản lý giao dịch điện tử, thanh toán quốc tế; chống thất thu thuế, đồng thời có thể là nguyên nhân phát sinh các tội phạm xâm phạm sở hữu, xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, rửa tiền...
Tất cả những biến đổi đó, đòi hỏi PLHS cũng phải thay đổi một số quan điểm truyền thống về các yếu tố cấu thành tội phạm, ví dụ: “an ninh mạng” có phải là khách thể bảo vệ của PLHS không; “tài sản ảo” có được thừa nhận không; hành vi thực hiện trên “không gian mạng”, thậm chí ngoài trái đất hay hành vi thực hiện bởi trí tuệ nhân tạo (AI) thì trách nhiệm hình sự giải quyết thế nào; hậu quả của tội phạm xuyên quốc gia, xuyên biên giới; chủ thể của tội phạm là AI... Do đó, cần rà soát, đánh giá những tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư trong từng lĩnh vực làm phát sinh những hành vi nguy hiểm cho xã hội nào (ví dụ: trí tuệ nhân tạo (AI) làm phát sinh tội phạm AI(15); dữ liệu lớn làm gia tăng tội phạm mạng...).
Ba là, kịp thời sửa đổi, bổ sung những điều luật bảo đảm ứng phó với diễn biến của tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia.
Ở đây, đòi hỏi PLHS phải được thường xuyên cập nhật, tương thích, ứng phó với diễn biến thực tế của tội phạm đang diễn ra và đấu tranh có hiệu quả với tội phạm có tổ chức, xuyên quốc gia. Phát sinh trong điều kiện phát triển nhanh chóng của tri thức và khoa học - công nghệ, nhiều loại tội phạm phi truyền thống không ngừng biến đổi về phương thức, thủ đoạn phạm tội theo hướng ngày càng tinh vi, phức tạp làm cho việc phát hiện, đấu tranh và xử lý gặp khó khăn, trong khi cấu thành tội phạm trong BLHS chưa kịp điều chỉnh và các cơ quan, lực lượng chức năng chưa kịp tổng kết, đánh giá và nhận diện mô hình hóa nó. Do đó, nếu PLHS không theo kịp những diễn biến đó sẽ dẫn đến nguy cơ bỏ lọt tội phạm, tạo ra kẽ hở cho tội phạm lợi dụng. Quyết định số 623/QĐ-TTg, ngày 14-4-2016, của Thủ tướng Chính phủ, phê duyệt “Chiến lược quốc gia phòng, chống tội phạm giai đoạn 2016 - 2025 và định hướng đến năm 2030”, nêu rõ: Nâng cao hiệu quả công tác phòng ngừa, đấu tranh phòng, chống các loại tội phạm, nhất là tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia, tội phạm sử dụng công nghệ cao, tội phạm về kinh tế, tham nhũng, ma túy, môi trường, tội phạm xâm hại trẻ em... Trong khi đó, “tội phạm có tổ chức” lại chưa được ghi nhận để điều chỉnh trong BLHS, khi mà các tổ chức tội phạm gây ra những tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng cũng ngày càng gia tăng, là mối nguy hại cho xã hội và nỗi lo cho nhân dân, sự đau đầu cho các nhà lãnh đạo, quản lý trên toàn thế giới.
Cùng với đó, PLHS phải có tính tương thích quốc tế cao, bởi vì tính chất xuyên quốc gia, quy mô ảnh hưởng xuyên biên giới của tội phạm phi truyền thống, đòi hỏi các quốc gia trên thế giới phải hợp tác chặt chẽ mới có thể đấu tranh đạt hiệu quả cao. Bởi lẽ, vấn đề xung đột pháp luật, tranh chấp thẩm quyền tài phán sẽ là những rào cản trong công tác xét xử các tội phạm này. Do đó, để tăng cường tính “tương thích” pháp luật làm cơ sở cho việc hợp tác, đấu tranh phòng, chống tội phạm, đòi hỏi Việt Nam phải từng bước tham gia, ký kết và thực thi các điều ước quốc tế, các thỏa thuận hợp tác song phương và đa phương trong khu vực, quốc tế về phòng, chống tội phạm xuyên quốc gia, chẳng hạn, từng bước nội luật hóa các quy định của Công ước chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia năm 2000 của Liên hợp quốc vào BLHS năm 2015. Đồng thời, đồng bộ hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về thủ tục tố tụng, hợp tác giải quyết vụ án, vấn đề dẫn độ và chuyển giao... trong luật tố tụng hình sự, luật thi hành án hình sự để hoạt động giải quyết vụ án đạt hiệu quả cao.
3. Định hướng giải pháp chủ động ứng phó với tác động của an ninh phi truyền thống
Một là, khắc phục triệt để những sơ hở, thiếu sót trong việc kết hợp kinh tế và quốc phòng, an ninh tại các địa bàn, nhất là địa bàn chiến lược. Theo đó, phát triển bền vững, bảo đảm an sinh xã hội, thực hiện công bằng xã hội, xóa đói, giảm nghèo, phát triển văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ, chăm lo đời sống vật chất, tinh thần và sức khỏe của nhân dân, tăng cường quốc phòng và an ninh... là những vấn đề cơ bản tạo nền tảng vững chắc cho việc đối phó với các mối đe dọa ANPTT.
Hai là, tạo nền tảng vững chắc để phòng, chống có hiệu quả những thách thức từ cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, tác hại từ ANPTT. Có các biện pháp đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội; nâng cao năng lực dự báo, cảnh báo và ứng phó với thiên tai, giám sát biến đổi khí hậu và tìm kiếm, cứu nạn, cứu hộ; xây dựng quốc gia phát triển bền vững với việc bảo đảm các chỉ số an ninh, an sinh, an toàn có ý nghĩa nền tảng trong xử lý các vấn đề an ninh phi truyền thống. Trong đó:
Chỉ số đảm bảo an ninh: An ninh cho dân cư; an ninh môi trường sinh thái; an ninh dân số; an ninh cho doanh nghiệp; an ninh tiền tệ, tài chính; an ninh lương thực; an ninh biên giới, biển đảo; an ninh kết nối; an ninh mạng; an ninh tôn giáo; an ninh nông thôn; an ninh các cơ sở dữ liệu.
Chỉ số bảo đảm an sinh: Kinh tế phát triển bền vững; khả năng tự phục hồi kinh tế, cạnh tranh; chất lượng sống cao; chăm sóc dễ bị tổn thương, các nhóm yếu thế; việc làm; chăm sóc y tế; giáo dục đào tạo; văn hóa tinh thần; không gian sống; khả năng tiếp cận các dịch vụ đô thị, dịch vụ an sinh; an sinh về nhà ở; di chuyển và giao thông công cộng; lương hưu và trợ cấp.
Chỉ số đảm bảo an toàn: An toàn về giảm tội phạm; an toàn về dịch bệnh; an toàn về thực phẩm; an toàn giao thông; an toàn môi trường không khí; an toàn nguồn nước; an toàn về tài sản; an toàn riêng tư; an toàn kinh doanh; an toàn phòng, chống cháy nổ.
Ba là, xây dựng kế hoạch, phương án phòng, chống, khắc phục hậu quả và tổ chức luyện tập, diễn tập theo các phương án đã được phê duyệt. Coi trọng đầu tư, chuẩn bị cả về con người và phương tiện hiện đại cho nhiệm vụ đối phó với những thách thức từ cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, thách thức ANPTT, bảo đảm có lực lượng chuyên trách, kiêm nhiệm và lực lượng rộng rãi; luôn nắm vững tình hình, sẵn sàng xử lý kịp thời các tình huống xảy ra.
Bốn là, đẩy mạnh hợp tác với các nước và các tổ chức quốc tế, các cơ quan an ninh, cảnh sát của các nước trong vấn đề ANPTT, đấu tranh chống khủng bố, phòng, chống tội phạm xuyên quốc gia; thiết lập hành lang pháp lý, xây dựng cơ chế hợp tác với các nước trong khu vực và quốc tế, với các tổ chức quốc tế có liên quan; chú trọng tăng cường quan hệ hợp tác với các nước ASEAN trong đối phó với các mối đe dọa ANPTT. Đặc biệt trong hợp tác quốc tế phải có chọn lọc, có trọng tâm trọng điểm; tập trung vào các vấn đề về đào tạo, huấn luyện, diễn tập, khắc phục hậu quả thảm họa, thiên tai, hỗ trợ nhân đạo, phòng, chống khủng bố, tội phạm xuyên quốc gia, đối phó với tình trạng biến đổi khí hậu, thảm họa thiên nhiên, với các chương trình, kế hoạch và cơ chế phù hợp... góp phần giảm thiểu tác động của các nguy cơ ANPTT đối với nước ta nói chung, chú trọng khu vực vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
Dù còn nhiều quan niệm rất đa dạng, song có thể định dạng một số đặc điểm chủ yếu sau của an ninh phi truyền thống:
- Các vấn đề an ninh phi truyền thống diễn ra ảnh hưởng trên phạm vi khu vực hoặc toàn cầu, mang tính xuyên quốc gia. Nó có thể phát sinh từ một quốc gia này nhưng có khả năng lan tỏa với tốc độ nhanh, phạm vi rộng đến quốc gia khác (biến đổi khí hậu, tội phạm mạng, dịch bệnh lây lan nhanh ở người, gia súc và cây trồng...).
- Các mối đe dọa an ninh phi truyền thống thường do các tác nhân tự nhiên hoặc do các tổ chức ngoài nhà nước, nhóm người hoặc cá nhân tiến hành; còn an ninh truyền thống là xung đột giữa quân đội các nhà nước.
- Các mối đe dọa an ninh phi truyền thống uy hiếp trực tiếp đến cá nhân con người hoặc cộng đồng, quốc gia - dân tộc; còn an ninh truyền thống uy hiếp trực tiếp đến chủ quyền lãnh thổ quốc gia - dân tộc, uy hiếp an ninh quốc gia.
- Các mối đe dọa an ninh phi truyền thống có cả những vấn đề mang tính phi bạo lực (kinh tế, văn hóa, môi trường, an ninh mạng, dịch bệnh...) và những vấn đề mang tính bạo lực, nhưng đó là bạo lực phi quân đội (khủng bố, tội phạm có tổ chức...)
- Giải quyết an ninh phi truyền thống nhấn mạnh đến hợp tác, sử dụng biện pháp ngoại giao, kể cả ngoại giao giữa quân đội các nước. Còn an ninh truyền thống thường lấy biện pháp vũ trang - quân sự là chính, còn ngoại giao là hỗ trợ.
- Về mặt thời gian, an ninh phi truyền thống xuất hiện muộn hơn an ninh truyền thống. Tuy nhiên, cần phải thấy rằng, nhiều mối đe dọa an ninh phi truyền thống đã xuất hiện từ rất lâu trong lịch sử (dịch bệnh, khan hiếm lương thực, khủng bố...) nhưng do diễn ra ở phạm vi nhỏ hẹp, quy mô chưa lớn, truyền thông chưa phát triển hoặc vấn đề quyền con người chưa được quan tâm, nên ít hoặc không được quan tâm. Còn ngày nay, do tác động của toàn cầu hóa, mặt trái của sử dụng thành tựu cách mạng khoa học - công nghệ, sự mở rộng các phương tiện truyền thông đa phương tiện,... các vấn đề an ninh phi truyền thống có điều kiện phát tác nhanh, lan tỏa rộng, ảnh hưởng lớn, trở thành mối quan tâm toàn nhân loại.
- Các mối đe dọa an ninh phi truyền thống hủy hoại an ninh quốc gia dần dần và lâu dài, vì nó tác động đến các yếu tố mang tính hạt nhân hoặc bệ đỡ cho ổn định và phát triển (cá nhân con người, cộng đồng xã hội, hệ thống thể chế, hạ tầng kỹ thuật chiến lược và môi trường sống)
- An ninh phi truyền thống và an ninh truyền thống là hai mặt của khái niệm an ninh toàn diện. Vì vậy, an ninh phi truyền thống và an ninh truyền thống cùng tác động đến xây dựng chiến lược an ninh quốc gia,... bảo đảm ổn định và phát triển của quốc gia.
Từ những phân tích trên đây có thể khái quát về an ninh phi truyền thống như sau:
An ninh phi truyền thống là việc bảo đảm an toàn, không có hiểm nguy cho cá nhân con người, quốc gia dân tộc và toàn nhân loại trước các mối đe dọa có nguồn gốc phi quân sự như biến đổi khí hậu, ô nhiễm môi trường, khan hiếm nguồn lực, dịch bệnh lây lan nhanh, khủng hoảng tài chính, an ninh mạng, tội phạm nguy hiểm xuyên biên giới, chủ nghĩa khủng bố… Các mối đe dọa an ninh phi truyền thống thường lan tỏa nhanh, ảnh hưởng rộng mang tính khu vực hoặc toàn cầu, do tác động bởi mặt trái của kinh tế thị trường, của toàn cầu hóa, của sử dụng thành tựu khoa học - công nghệ.
Các mối đe dọa an ninh phi truyền thống tuy không thách thức trực tiếp chủ quyền lãnh thổ quốc gia nhưng uy hiếp và hủy hoại các yếu tố tạo nền tảng cho sinh tồn và phát triển của cá nhân con người, cộng đồng xã hội, quốc gia dân tộc và toàn nhân loại. Một số mối đe dọa an ninh phi truyền thống có nguồn gốc nhân tạo, có chủ thể mang tính tổ chức, nhưng đó là các chủ thể ngoài nhà nước (tất nhiên ngày nay không loại trừ các nhà nước đứng sau tài trợ không chính thức cho một số hoạt động như an ninh mạng, khủng bố...); nhiều mối đe dọa an ninh phi truyền thống khác lại phát sinh từ các tác nhân thiên tạo. Không ít mối đe dọa đối với con người đã xuất hiện trong lịch sử nhưng do giới hạn của điều kiện bối cảnh nên phạm vi lan tỏa chưa rộng, sức uy hiếp chưa lớn. Ngày nay, do tác động từ mặt trái của kinh tế thị trường, của toàn cầu hóa, của sử dụng thành tựu khoa học và công nghệ, các mối đe dọa đó có khả năng lan tỏa rộng lớn hơn, sức uy hiếp mạnh hơn, nên được xem là an ninh phi truyền thống. Khác với an ninh truyền thống giải quyết chủ yếu bằng biện pháp quân sự, còn biện pháp ngoại giao chỉ đóng vai trò hỗ trợ, thì an ninh phi truyền thống lại chỉ có thể giải quyết bằng biện pháp ngoại giao, hợp tác giữa các quốc gia và các tổ chức quốc tế.
Tuy nhiên, phân biệt an ninh phi truyền thống và an ninh truyền thống trong từng trường hợp cụ thể nhiều khi cũng chỉ mang tính tương đối. Chúng có thể chồng xếp, đan cài và chuyển hóa cho nhau. Chẳng hạn, khi xem xét hiện tượng chủ nghĩa khủng bố, từ góc độ chủ thể tiến hành thì mang tính chất an ninh phi truyền thống (do tổ chức ngoài nhà nước tiến hành), nhưng từ góc độ hành vi lại là an ninh truyền thống (sử dụng bạo lực). Hoặc bạo loạn chính trị, nếu xét về bản chất là an ninh truyền thống, nhưng nếu xét phương thức sử dụng công nghệ mạng truyền tin gây hiệu ứng nhanh để tập hợp thành đám đông, lại là an ninh phi truyền thống. Hoặc các vấn đề tranh chấp nguồn nước, an ninh hàng hải, an ninh nghề cá, vấn đề dân tộc, tôn giáo có thể chuyển hóa từ an ninh phi truyền thống thành an ninh truyền thống nếu thiếu biện pháp kiểm soát hiệu quả.
-----------------------------------------------------------------------------------
(1) Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (còn gọi là Cách mạng công nghiệp 4.0) kết hợp các công nghệ với nhau, qua đó làm mờ ranh giới giữa vật lý, kỹ thuật và sinh học. Xem thêm: Klaus Schwab: Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2018
(2) Xem: Tạ Ngọc Tấn, Phạm Thành Dung, Đoàn Minh Huấn (Đồng chủ biên): An ninh phi truyền thống - Những vấn đề lý thuyết đến thực tiễn, Nxb. Lý luận Chính trị, Hà Nội, 2015, tr. 9 - 19
(3) Xem: Bernard Guillochon: Toàn cầu hóa - Duy nhất một hành tinh, nhiều dự án khác nhau (Ngân Điệp, Thu Trang dịch), Nxb. Trẻ, Hà Nội, 2011, tr. 6
(4) Xem: Robert John Holton: Globalization and the Nation-State, Macmillan Press, London, 1989, tr. 8
(5), (6), (7), (8) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 106 - 107, 208, 279, 281
(9) Xem: Anthony J. Masys: Exploring the Security Landscape: Non-Traditional Security Challenges, Springer, 2016, tr. 1
(10) Xem: Trịnh Tiến Việt, Dương Văn Tiến: “Pháp luật hình sự Việt Nam trước thách thức ANPTT”, Tạp chí Khoa học, Luật học, Số 4-2016, tr. 89
(11) Xem: Bộ Quốc phòng: Từ điển Bách khoa Quân sự Việt Nam, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2004, tr. 25
(12) Xem: Nguyễn Thị Phương Hoa: “Vấn đề tội phạm hóa trong các Công ước đấu tranh với tội phạm xuyên quốc gia”, Tạp chí Luật học, Số 6-2010, tr. 19 - 24
(13) Xem: Nguyễn Trường Giang, Nguyễn Ngọc Anh: Công ước của Liên hợp quốc về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia và các nghị định thư bổ sung, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 2005, tr. 25
(14) Xem: Trịnh Tiến Việt: “Trách nhiệm hình sự của cá nhân, pháp nhân và thực thể trí tuệ nhân tạo (AI): Quá khứ, hiện tại và viễn cảnh tương lai”, Tạp chí Tòa án nhân dân, Số 4, 5-2020, tr. 1 – 11
(15) Xem: Thomas C. King, Nikita Aggarwal, Mariarosaria Taddeo, Luciano Floridi: Artificial Intelligence Crime: An Interdisciplinary Analysis of Foreseeable Threats and Solutions, Science and Engineering Ethics, 2020, tr. 69.
[I] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 1996, tr.77.
[II] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2006, tr.74.
[III] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tập I, tr.106
----------------------------------------------------------------
MỘT SỐ TÀI LIỆU CÓ THAM KHẢO:
1. Saurabh Chaudhuri: Difining no-traditional security threats, http://www.globalindiafoundation.org
2. Amitav Acharya là Chủ tịch của UNESCO trong những vấn đề thách thức xuyên quốc gia và Chủ tịch Trung tâm Nghiên cứu ASEAN. Trước đó, ông là Giáo sư Đại học Bristol, Đại học Toronto, Đại học Công nghệ Nanyang (Singapore), Ủy viên Trung tâm châu Á của Đại học Harvard, Trường John F. Kenedy
3. Trần Văn Trình: “An ninh phi truyền thống - Những thách thức mang tính toàn cầu”, 2006, http://ca.cand.com.vn/vi-vn/thoisuxahoi/thoiluan/2006/8/ 79352.cand, truy cập ngày 24-7-2011
4. Nguyễn Vũ Tùng, Tiếp cận thách thức an ninh phi truyền thống, Tạp chí Những vấn đề kinh tế và chính trị thế giới, số 4 (144), 2008
5. Lê Văn Cương, Tác động của nhân tố an ninh phi truyền thống đối với văn hóa và con người ở một số nước Đông Á, Tạp chí Thông tin Khoa học xã hội, số 9-2008
6. Hồ Châu (chủ nhiệm), Mối đe dọa an ninh phi truyền thống và tác động của nó đến quan hệ quốc tế hiện nay. Báo cáo tổng hợp đề tài khoa học cấp bộ, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2006
7. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 1996
8. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2006, tr. 74
9. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011
10. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016
11. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tập I
12. Phùng Hữu Phú, Nguyễn Văn Đặng, Nguyễn Viết Thông (đồng chủ biên), Tìm hiểu một số thuật ngữ trong văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2016.
Điện thoại: 0918. 154511 - hoặc: 0977. 120048
Email: vutuantrinh@moet.edu.vn hoặc trinhvt@leloi.sgdbinhduong.edu.vn
Địa chỉ: Số 03, đường Tân Thành 37, khu phố 5, Thị trấn Tân Thành, huyện Bắc Tân Uyên, tỉnh Bình Dương.