Điện thoại: 0918154511 - Email: vutuantrinh@moet.edu.vn hoặc trinhvt@leloi.sgdbinhduong.edu.vn
banner_thang_11abanner_thang_11bb28-9-2023do_qpbanner_thang_11cbanner_thang_11d
CHÀO MỪNG BẠN ĐẾN VỚI WEBSITE CÁ NHÂN CỦA THẦY VŨ TUẤN TRÌNH TRƯỜNG THPT LÊ LỢI - BẮC TÂN UYÊN - BÌNH DƯƠNG. CHÚC BẠN CÓ NHỮNG GIÂY PHÚT THẬT THÚ VỊ!

30/4-PHẦN 2: Bắc Tân Uyên, Bình Dương với ngày lịch sử 30/4/1975

PHẦN 2: LỊCH SỬ 30/4/1975

 

I. CHẶNG ĐƯỜNG LỊCH SỬ, CHIẾN CÔNG OANH LIỆT CỦA SỰ NGHIỆP CHỐNG MỸ CỨU NƯỚC,
GIẢI PHÓNG HOÀN TOÀN MIỀN NAM, THỐNG NHẤT ĐẤT NƯỚC

1. Bối cảnh quốc tế và trong nước:

Sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai, đế quốc Mỹ có tiềm lực rất mạnh, nổi lên cầm đầu phe đế quốc, hiếu chiến và âm mưu bá chủ thế giới, từng bước khẳng định sự có mặt ở Đông Dương. Sau thất bại của thực dân Pháp ở Điện Biên Phủ, chủ nghĩa thực dân cũ sụp đổ, đế quốc Mỹ nhảy vào miền Nam Việt Nam, áp đặt chủ nghĩa thực dân mới, âm mưu chia cắt lâu dài đất nước ta. Lúc này trên thế giới đã phân chia thành 2 hệ thống đối đầu gay gắt bằng cuộc “chiến tranh lạnh” và chạy đua vũ trang quyết liệt. Hệ thống chủ nghĩa xã hội (XHCN), phong trào công nhân ở các nước tư bản, phong trào giải phóng dân tộc ở khắp nơi trên thế giới dâng cao.

Trong nước, sau 9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp, miền Bắc được giải phóng và bước vào thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội, miền Nam vẫn dưới ách thống trị của đế quốc Mỹ và tay sai. Đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước trở thành nhiệm vụ thiêng liêng của toàn dân tộc ta.

2. Những bước phát triển của cuộc kháng chiến

Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta trải qua gần 21 năm, là cuộc kháng chiến lâu dài, gian khổ, hy sinh và nhiều thách thức, ác liệt. Đảng và nhân dân ta phải đấu trí và đấu sức chống tên đế quốc giàu mạnh và hung bạo nhất trong phe đế quốc. Cuộc kháng chiến này đã trải qua nhiều giai đoạn, phải đối phó lần lượt với các kế hoạch, chiến lược của đế quốc Mỹ.Giai đoạn từ tháng 7/1954 đến hết năm 1960: Đấu tranh giữ gìn lực lượng, chuyển dần sang thế tiến công, làm thất bại bước đầu phương thức chủ nghĩa thực dân mới của đế quốc Mỹ.

Những chiến thắng oanh liệt trong kháng chiến chống thực dân Pháp mà đỉnh cao là Chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954 đã buộc thực dân Pháp và can thiệp Mỹ phải ký Hiệp định Giơnevơ về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam và Đông Dương, cam kết tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, Campuchia và Lào. Nhưng với những mưu đồ đã dự tính từ trước, đế quốc Mỹ trắng trợn phá hoại Hiệp định Giơnevơ, hất cẳng Pháp, gạt bỏ những thế lực tay sai của Pháp, dựng lên chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm, thực hiện chính sách thực dân mới, mưu đồ chia cắt lâu dài đất nước ta. Chính quyền Mỹ - Diệm tập trung thực hiện biện pháp “tố cộng”, “diệt cộng” đàn áp, khủng bố phong trào yêu nước, trả thù những người kháng chiến cũ, tiêu diệt cơ sở cách mạng ở miền Nam, ban hành Luật 10/59 “đặt cộng sản ra ngoài vòng pháp luật”, lê máy chém đi khắp nơi, cả miền Nam tràn ngập nhà tù, trại giam, trại tập trung. Cách mạng miền Nam bị dìm trong biển máu.

Đứng trước tình thế mới, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lãnh đạo quân và dân cả nước thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược: Một là tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, xây dựng miền Bắc thành căn cứ vững mạnh của cách mạng cả nước. Hai là cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam nhằm giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và tay sai, thực hiện thống nhất nước nhà. Thực hiện nhiệm vụ trên, miền Bắc tích cực triển khai những công việc bộn bề sau chiến tranh, nhanh chóng tổ chức cuộc sống mới. Trong ba năm (1958-1960), chúng ta đã hoàn thành về cơ bản công cuộc cải tạo XHCN, căn bản xoá bỏ chế độ bóc lột, bước đầu xây dựng, phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội theo con đường đi lên CNXH, chuẩn bị một số nội dung cho cách mạng cả nước trong giai đoạn mới.

Ở miền Nam, cuộc đấu tranh diễn ra vô cùng khó khăn, ác liệt, nhưng đại bộ phận nhân dân vẫn một lòng theo Đảng, bất khuất chống áp bức, khủng bố, bảo vệ lực lượng cách mạng. Nghị quyết 15 của Trung ương Đảng ra đời, xác định rõ mục tiêu, phương pháp cách mạng miền Nam, mối quan hệ chiến lược của cách mạng hai miền, giữa cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới; phản ánh đúng nhu cầu của lịch sử, giải quyết kịp thời yêu cầu phát triển của cách mạng miền Nam; định hướng và động viên nhân dân miền Nam vùng lên đấu tranh, tạo ra phong trào Đồng khởi (1959 - 1960), xoay chuyển tình thế cách mạng miền Nam, làm tan rã hàng loạt bộ máy của ngụy quyền ở các thôn, xã.

2.1. Giai đoạn từ đầu năm 1961 đến giữa năm 1965: Giữ vững và phát triển thế tiến công, đánh bại chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ.

Từ cuối năm 1960, đế quốc Mỹ thay đổi chiến lược, chuyển sang chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” đối phó với cách mạng miền Nam. Đó là chiến lược dùng quân đội ngụy tay sai làm công cụ tiến hành chiến tranh, càn quét, dồn dân vào ấp chiến lược, đưa 10 triệu nông dân miền Nam vào các trại tập trung, tách lực lượng cách mạng ra khỏi nhân dân. Cuộc đấu tranh của nhân dân miền Nam chuyển sang giai đoạn mới, từ khởi nghĩa từng phần lên chiến tranh cách mạng, kết hợp song song cả đấu tranh vũ trang và đấu tranh chính trị, đánh địch bằng cả ba mũi giáp công, trên cả ba vùng chiến lược, làm phá sản chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ và tay sai.

Trên miền Bắc, các mặt trận kinh tế, văn hoá, an ninh quốc phòng đều có bước phát triển mới. Quân và dân miền Bắc thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, vừa sản xuất vừa sẵn sàng chiến đấu và chi viện cho miền Nam.

2.2. Giai đoạn từ giữa năm 1965 đến hết năm 1968: Đảng phát động toàn dân chống Mỹ cứu nước, đánh bại chiến lược “Chiến tranh cục bộ” của đế quốc Mỹ ở miền Nam, đánh thắng cuộc phá hoại bằng không quân, hải quân lần thứ nhất ở miền Bắc.

Trước nguy cơ phá sản của “Chiến tranh đặc biệt”, đế quốc Mỹ chuyển sang chiến lược “Chiến tranh cục bộ”, sử dụng quân đội Mỹ là lực lượng cơ động chủ yếu tiêu diệt bộ đội chủ lực ta; dùng ngụy quân, ngụy quyền để bình định, kìm kẹp nhân dân, âm mưu đánh bại cách mạng miền Nam trong vòng 25 đến 30 tháng (từ giữa 1965 đến hết 1967), đẩy mạnh chiến tranh phá hoại miền Bắc bằng không quân và hải quân.

Trên chiến trường miền Nam, quân và dân ta đã đánh thắng quân xâm lược Mỹ ngay từ những trận đầu khi chúng vừa đổ bộ vào. Tiếp theo những trận thắng oanh liệt ở Núi Thành, Vạn Tường, Plâyme, Đất Cuốc, Bầu Bàng, ta đã đánh bại 3 cuộc hành quân lớn của Mỹ vào miền Đông Nam Bộ, đánh thắng lớn ở các chiến trường Tây Nguyên, miền Tây khu V, Đường 9, đồng bằng Nam Bộ và các mục tiêu chủ yếu của địch ở các thành phố lớn.

Quân dân miền Bắc tiếp tục đánh trả cuộc tiến công của Mỹ bằng không quân và hải quân, giành những thắng lợi lớn trên nhiều mặt, bảo đảm giao thông thông suốt, chi viện sức người, sức của ngày càng lớn cho miền Nam. Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân năm 1968 đã giáng một đòn quyết định vào chiến lược “Chiến tranh cục bộ” của đế quốc Mỹ, buộc chúng phải xuống thang chiến tranh và ngồi vào bàn đàm phán với ta tại Hội nghị Pari, đưa cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc ta bước vào giai đoạn mới.

2.3. Giai đoạn từ năm 1969 đến năm 1973: Phát huy sức mạnh liên minh chiến đấu Việt Nam với Lào, Campuchia, làm thất bại một bước chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh”, đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân, hải quân lần thứ hai ở miền Bắc, tạo thế mạnh trong đàm phán.

Đế quốc Mỹ thi hành chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh”, từng bước mở rộng chiến tranh sang Campuchia, Lào. Thủ đoạn xảo quyệt của Mỹ là thực hiện chiến tranh hủy diệt và chiến tranh giành dân, chiến tranh bóp nghẹt để làm suy yếu cuộc kháng chiến của nhân dân ta trên cả hai miền Nam - Bắc. Quân và dân ta phối hợp với quân, dân hai nước Lào, Campuchia đánh bại một bước quan trọng chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh”. Những thắng lợi của chiến tranh cách mạng ba nước Đông Dương trong hai năm 1970-1971 đã tạo thuận lợi cho cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta. Nhờ chuẩn bị tốt lực lượng, nhằm đúng thời cơ, quân và dân ta đã liên tiếp giành thắng lợi lớn trên chiến trường, nhất là cuộc tiến công chiến lược năm 1972 và đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ hai ở miền Bắc, nổi bật là đánh thắng cuộc tập kích chiến lược bằng máy bay B52 của Mỹ, làm thay đổi cục diện chiến trường, cục diện chiến tranh. Trong đàm phán, chúng ta cũng khôn khéo tiến công địch, phối hợp chặt chẽ giữa “đánh và đàm”, buộc Mỹ phải ký Hiệp định Pari, rút hết quân xâm lượt Mỹ và quân các nước chư hầu ra khỏi miền Nam. So sánh lực lượng thay đổi hẳn, có lợi cho ta, tạo điều kiện cơ bản nhất để ta giành thắng lợi cuối cùng.

2.4. Giai đoạn từ cuối năm 1973 đến ngày 30/4/1975: Tạo thế và lực, tạo thời cơ, kiên quyết tiến hành cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975, kết thúc thắng lợi trọn vẹn cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.

Sau khi ký Hiệp định Pari, mặc dù buộc phải rút hết quân nhưng đế quốc Mỹ vẫn tiếp tục âm mưu dùng ngụy quân, ngụy quyền làm công cụ để thực hiện chủ nghĩa thực dân mới ở miền Nam Việt Nam. Mỹ tăng cường tiền của, vũ khí, phương tiện chiến tranh cho ngụy lấn đất, giành dân, khống chế nhân dân, thực hiện các hoạt động ngoại giao xảo quyệt để ngăn chặn sự phát triển của cách mạng miền Nam. Đến tháng 5/1973, xu thế chống phá Hiệp định Pari của địch ngày càng tăng. Chúng điên cuồng đánh phá hòng xoá bỏ vùng giải phóng của ta, đẩy lùi lực lượng cách mạng.

Tháng 7/1973, Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 21 đã khẳng định con đường cách mạng miền Nam vẫn là con đường bạo lực và đề ra các nhiệm vụ lớn cho hai miền Nam - Bắc. Nửa cuối năm 1974, cuộc chiến tranh của quân và dân ta ở miền Nam chống lại chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh” đã giành được thắng lợi. Ta ngày càng mạnh lên, ngụy ngày càng suy yếu rõ rệt. Nước Mỹ lâm vào khủng hoảng nội bộ.

Tháng 7/1974, Đảng ta chỉ đạo Bộ Tổng tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam xây dựng kế hoạch chiến lược giải phóng miền Nam trong hai năm 1975-1976, nếu thời cơ đến sẽ giải phóng miền Nam trong năm 1975. Thắng lợi toàn miền, nhất là của miền Đông Nam Bộ, đặc biệt là chiến thắng Phước Long cuối năm 1974 - đầu năm 1975 càng cho thấy thực tế suy yếu của quân ngụy Sài Gòn và khả năng Mỹ khó quay lại Việt Nam. Đảng ta nhận định thời cơ giải phóng hoàn toàn miền Nam đã đến.

 Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 bắt đầu từ ngày 4/3 bằng 3 đòn chiến lược: Chiến dịch Tây Nguyên mở đầu bằng trận đột phá đánh chiếm Buôn Ma Thuột, giải phóng Tây Nguyên; Chiến dịch giải phóng Huế - Đà Nẵng và Chiến dịch Hồ Chí Minh giải phóng Sài Gòn - Gia Định kết thúc vào ngày 30/4. Qua gần 2 tháng chiến đấu với sức mạnh áp đảo về chính trị và quân sự, quân và dân ta đã giành được toàn thắng, kết thúc 21 năm kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược.

3. Ý nghĩa lịch sử

3.1.  Đối với Việt Nam: Thắng lợi của nhân dân ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là thành quả vĩ đại nhất của sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội do Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo; là trang sử hào hùng và chói lọi trên con đường dựng nước và giữ nước mấy ngàn năm của dân tộc. Nhân dân ta đánh thắng kẻ thù lớn mạnh và hung hãn nhất của loài người tiến bộ; kết thúc oanh liệt cuộc chiến đấu 30 năm giành độc lập tự do, thống nhất cho đất nước; chấm dứt ách thống trị hơn một thế kỷ của chủ nghĩa thực dân cũ và mới trên đất nước ta; đánh dấu bước ngoặt quyết định trong lịch sử dân tộc, đưa đất nước ta bước vào kỷ nguyên độc lập tự do, cả nước đi lên CNXH.

3.2.  Đối với thế giới: Thắng lợi của nhân dân ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là thắng lợi tiêu biểu của lực lượng cách mạng thế giới; góp phần thúc đẩy mạnh mẽ cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì mục tiêu độc lập dân tộc, hoà bình, dân chủ và tiến bộ xã hội; cổ vũ, động viên các dân tộc đang tiến hành công cuộc giải phóng dân tộc, chống chủ nghĩa đế quốc; mở đầu sự phá sản của chủ nghĩa thực dân mới trên toàn thế giới.

4. Nguyên nhân thắng lợi

Một là, sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố quyết định hàng đầu bảo đảm thắng lợi của cách mạng Việt Nam.

Hai là, nhân dân và các lực lượng vũ trang nhân dân đã phát huy truyền thống yêu nước, chủ nghĩa anh hùng cách mạng, một lòng đi theo Đảng, đi theo Bác Hồ, chiến đấu dũng cảm, ngoan cường, bền bỉ, lao động quên mình vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì CNXH và vì quyền con người.

Ba là, cả nước đoàn kết, thống nhất ý chí và hành động, trên dưới một lòng, triệu người như một, quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược.

Bốn là, kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại, tạo thành sức mạnh tổng hợp đánh Mỹ và thắng Mỹ.

Năm làđoàn kết, liên minh chiến đấu với nhân dân Lào và nhân dân Campuchia; đoàn kết quốc tế.

5. Bài học kinh nghiệm

Thứ nhất: Xác định đường lối cách mạng đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với đặc điểm của cách mạng Việt Nam.

Thứ hai: Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.

Thứ ba: Vận dụng một cách sáng tạo, linh hoạt phương pháp đấu tranh cách mạng, phương thức tiến hành chiến tranh toàn dân và nghệ thuật quân sự chiến tranh toàn dân, xây dựng và phát triển lý luận chiến tranh cách mạng, chiến tranh nhân dân Việt Nam.

Thứ tư: Chủ động, nhạy bén, linh hoạt trong chỉ đạo chiến lược chiến tranh cách mạng và nghệ thuật tạo và nắm thời cơ giành những thắng lợi quyết định.

Thứ năm: Phải luôn luôn chú trọng xây dựng Đảng trong mọi hoàn cảnh, nâng cao sức chiến đấu và phát huy hiệu lực lãnh đạo của Đảng.

II. MỘT SỐ NÉT TRONG CHIẾN DỊCH MÙA XUÂN 1975 TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH BÌNH DƯƠNG

Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, cùng với quân - dân cả nước, quân và dân Bình Dương cũng đã anh dũng vượt qua những năm tháng vô cùng gian khổ, ác liệt. Nằm trên địa bàn trọng điểm, nơi đầu não của chế độ Mỹ - Nguỵ, nơi giằng co ác liệt giữa ta và địch, nơi thử thách ý chí và sức lực của con người một cách cao độ, nhưng với một lòng tận trung với Đảng, tận hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì Chủ nghĩa xã hội và hạnh phúc của Nhân dân, những người con thân yêu của Tỉnh nhà đã lên đường tham gia kháng chiến, vào sống ra chết, không ngại nguy nan; quân và dân Bình Dương đã phát triển hệ thống dân quân, du kích rộng khắp, mạnh mẽ, phối hợp, hiệp đồng tác chiến chặt chẽ cùng các đơn vị bộ đội chủ lực, góp phần làm nên những thắng lợi có ý nghĩa tác động sâu sắc đến toàn bộ cục diện chiến trường miền Nam. Những trận đánh, những địa danh, những tên đất, tên làng, như: chiến khu D, Thủ Biên - Tam giác sắt, Bàu Bàng, Đất Cuốc, Bông Trang - Nhà đỏ, Lò Gạch, Tháp canh - Cầu Bà Kiên, Long Nguyên - Bến Cát, Dầu Tiếng, Thủ Dầu Một, Phước Thành, Lai Khê, Bàu Cá Trê ... cùng các đơn vị Tiểu đoàn 1 Phú Lợi, Đội nữ pháo binh Bến Cát ... mãi mãi được ghi vào lịch sử như những dấu ấn không bao giờ phai, tô thắm thêm truyền thống vẻ vang của quân - dân Bình Dương; những thắng lợi đó đã góp phần cùng quân - dân miền Đông Nam bộ nói riêng và cả nước nói chung lần lượt “đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào” viết nên thiên anh hùng ca rực rỡ nhất trong thời đại Hồ Chí Minh. Biết bao tấm gương trung liệt của nhân dân, tấm gương của các Mẹ Việt Nam Anh hùng, tấm gương của các Anh hùng liệt sĩ, các thương binh, bệnh binh, những người đã được biết đến và chưa được biết đến, thể hiện chủ nghĩa anh hùng cách mạng cao đẹp đã diễn ra trên mảnh đất Bình Dương thân yêu.

Thực hiện quyết tâm của Bộ Chính trị giải phóng miền Nam trong hai năm 1975-1976, cùng với toàn miền, quân và dân Thủ Dầu Một - Bình Dương tăng cường đẩy mạnh chiến lược tiến công, tạo thế và lực chuẩn bị cho cuộc tấn công chiến lược.

Ngày 10/3/1975, Sư đoàn 9 cùng bộ đội địa phương tiến công chi khu quân sự Trị Tâm (Dầu Tiếng). Ngày 13/3/1975, toàn bộ quận Dầu Tiếng được giải phóng, ta đã chặt đứt một mắc xích quan trọng, một vị trí xung yếu nhất trên tuyến phòng thủ hướng bắc Sài Gòn của địch.

Từ ngày 14-16/4/1975, Tỉnh ủy mở hội nghị cán bộ lãnh đạo chủ chốt phổ biến nhiệm vụ của quân và dân toàn Tinh trong chiến dịch tiến công và nổi dậy giải phóng Tỉnh và nhiệm vụ phối hợp với các quân đoàn chủ lực trong chiến dịch giải phóng Sài Gòn.

Với tinh thần “Một ngày bằng hai mươi năm”, việc chuẩn bị được tiến hành rất khẩn trương. Trước đó, Tỉnh ủy đã điều 252 cán bộ chiến sĩ, đảng viên đang hoạt động trong vùng căn cứ và vùng giải phóng tăng cường cho các địa phương ở phía trước. Trong lúc đó, hàng ngàn chiến sĩ, cán bộ cùng với lực lượng dân công hỏa tuyến liên tục ngày đêm tích cực chuyển hơn 40 tấn đạn dược, vũ khí, hơn 80 tấn lương thực xuống nam đường 16 để phục vụ chiến trường.

Ngày 18/4/1975, Ủy ban Mặt trận dân tộc giải phóng và Ủy ban nhân dân cách mạng tỉnh Thủ Dầu Một ra lời kêu gọi: “Toàn thể cán bộ, chiến sĩ, các cấp, các ngành, các vùng hãy phát huy cao độ vai trò tiên phong gương mẫu, kiên cường, bất khuất đạp bằng mọi gian khổ hy sinh, quyết cùng đồng bào liên tục tấn công đập tan bộ máy kìm kẹp của địch, giảnh toàn bộ chính quyền trong tỉnh về tay Nhân dân”. Cả thị xã và các nơi trong tỉnh sục sôi khí thế cách mạng tiến công với khẩu hiệu “Tất cả cho tuyền tuyến”, với quyết tâm cao nhất “giành chính quyền về tay Nhân dân”.

Ngày 26/4/1975, từ các căn cứ cách mạng và các vùng giải phóng, hàng vạn cán bộ, chiến sĩ của lực lượng vũ trang trong tỉnh cùng 2 sư đoàn chủ lực của Quân đoàn I và Đoàn 113 đặc công của quân khu vượt qua bom đạn của kẻ thù, ào ạt xuống đường hướng về các mục tiêu theo kế hoạch

Đêm 26 rạng ngày 27/4/1975, Tiểu đoàn 2 phú Lợi của Tỉnh được pháo binh Quân đoàn I chi viện, nổ súng tấn công cứ điểm Bình Mỹ, Bình Cơ, tiêu diệt tiểu đoàn 306 bảo an (tiểu đoàn có nhiều nợ máu với Nhân dân), bắt sống 17 tên, thu 92 súng các loại. Phối hợp với đòn tiến công quân sự, chi bộ lộ, cơ sở mật xã Bình Mỹ đã lãnh đạo vận động quần chúng nổi dậy phá ấp chiến lược, truy bắt tề điệp, kêu gọi binh lính ra hàng. Chiến thắng Bình Mỹ đã chọc thủng tuyến phòng ngự phía Bắc thị xã Thủ Dầu Một mở thông đầu cầu cho các cánh quân của Quân đoàn I áp sát mục tiêu được an toàn. Từ ngày 27/4/1975, cuộc tiến công và nổi dậy diễn ra đều khắp trên toàn Tỉnh.

Tại huyện Nam Bến Cát, thực hiện theo kế hoạch, đêm 27/4/1975, bộ đội huyện phối hợp với du kích các xã An Điền, An Tây, Phú An vây ép bao bó các đồn bót, các chốt đóng quân của Tiểu đoàn 361 bảo an ở ngã tư Chú Lường, ngã tư Thùng Thơ, ngã tư Phú Thứ. Quân ta bao vây dùng loa kêu gọi địch đầu hàng. Trước nguy cơ bị tiêu diệt, 6 giờ sáng ngày 28/4, toàn bộ quân địch đóng ở các vị trí 3 xã Tây Nam rút chạy, ta truy kích diệt 16 tên, thu trên 100 súng các loại. Tiểu đoàn 361 bảo an và bộ máy kìm kẹp của địch bị diệt và tan rã. Ba xã Tây Nam hoàn toàn được giải phóng.

Đêm 28 rạng ngày 29/4/1975, lực lượng ta pháo kích vào chi khu Tân Uyên, lực lượng huyện với hơn 30 đồng chỉ từ cầu Rạch Tre đánh lên, nhanh chóng phát triển hợp đồng tiếng súng với lực lượng của Sư đoàn 320B đánh chiếm các mục tiêu địch trong chỉ khu. Toàn bộ quân địch ở chi khu tháo chạy về Tân Ba và tan rã. Đến chiều 29/4, các xã còn lại của huyện Tân Uyên được hoàn toàn giải phóng.

Phối hợp với Tân Uyên, ngày 29/4/1975, tại Châu Thành, Phú Giáo, các đơn vị lực lượng vũ trang tỉnh, huyện, du kích các xã đồng loạt tiến công và nổi dậy bao vây bức hàng, bứt rút nhiều đồn bót địch. Tại xã Hòa Lợi, từ đêm 28/4, lực lượng Sư đoàn 312, được du kích xã dẫn đường đã chiếm lĩnh tỉnh lộ 2, chặn địch rút chạy. Các xã Đông Nam Châu Thành được sự chi viện của lực lượng Tinh, huyện sử dụng Đại đội 62 cùng du kích xã phát động quần chúng nổi dậy tiêu diệt làm tan rã hoàn toàn lực lượng bảo an, dân vệ và bộ máy kim kẹp tề, vệ, giải phóng hoàn toàn 4 xã Đông Nam.

Ở các huyện Lái Thiêu, Dĩ An và thị xã Thủ Dầu Một, lực lượng ta trong ngày 29/4/1975 đã áp sát mục tiêu. Bị bao vây từ 4 hướng, bọn địch phòng thủ với tâm trạng hoang mang cực độ. Để kịp thời chỉ đạo, chỉ huy các lực lượng tiến công giải phóng thị xã và các huyện phía trước, đêm 29 rạng ngày 30/4, Thường trực Tỉnh ủy từ căn cứ Bình Mỹ chuyển xuống đứng chân tại xã Phú Chánh. Ban chỉ đạo, Chỉ huy tiền phương cùng Ban chỉ huy Sư đoàn 312 đứng chân sát tiểu khu Phú Lợi.

Đúng 5 giờ sáng ngày 30/4/1975, một mũi của Quân đoàn 1 nổ súng tấn công căn cứ Phú Lợi và tiểu khu Bình Dương. Sau những đợt pháo bắn dồn dập, đơn vị xe tăng của Sư đoàn 312 tiến công vào căn cứ Phú Lợi. Quân địch hoảng loạn vứt cả súng đạn, quân trang, quân dụng tháo chạy. 9 giờ sáng ngày 30/4/1975, ta làm chủ hoàn toàn căn cứ Phú Lợi. 10 giờ 30 phút ngày 30/4/1975, lực lượng ta làm chủ tình hình trong nội ô thị xã, cờ giải phóng được cắm trên nóc tòa hành chính. Cuộc tiến công và nổi dậy của quân và dân thị xã Thủ Dầu Một đã làm tan rã hàng vạn quân ngụy, đập tan bộ máy chính quyền từ tỉnh đến huyện, xã, giành chính quyền về tay Nhân dân.

 

III. QUÂN DÂN HUYỆN BẮC TÂN UYÊN TRONG CUỘC TỔNG TIẾN CÔNG
GÓP PHẦN VÀO THẮNG LỢI MÙA XUÂN 1975.

1. Chuẩn bị lực lượng và mở rộng vùng giải phóng:

Ngày 6-1-1975, tỉnh Phước Long hoàn toàn giải phóng. Tin chiến thắng Phước Long bay tới Hà Nội giữa lúc Bộ Chính trị đang họp bàn kế hoạch thực hiện quyết tâm chiến lược giải phóng miền Nam trong hai năm 1975 - 1976. Căn cứ vào những diễn biến của tình hình, Bộ Chính trị chỉ rõ: “Nắm vững thời cơ lịch sử, mở nhiều chiến dịch tổng hợp liên tiếp, đánh những trận quyết định, kết thúc cuộc kháng chiến chống Mỹ, hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam, tiến tới thống nhất Tổ quốc … Chúng ta phải cố gắng cao nhất để thắng gọn trong năm 1975”([1]).

Ngày 27-1-1975, Trung ương Cục, Quân ủy và Bộ Chỉ huy Miền họp quán triệt Nghị quyết Bộ Chính trị và điều chỉnh bổ sung kế hoạch bước 2 của mùa khô năm 1974 - 1975. Thực hiện quyết tâm của Bộ Chính trị và nhiệm vụ của Quân ủy, Bộ Chỉ huy Miền giao, trong 2 tháng đầu năm 1975 quân và dân Thủ Dầu Một cùng với toàn Miền tiếp tục đẩy mạnh chiến lược tiến công, tạo thế, tạo lực chuẩn bị cho cuộc chiến đấu quyết định.

Sau khi mất Phước Long, địch tập trung củng cố tuyến ngăn chặn ở tuyến giữa, làm lá chắn cho lực lượng bên trong hoạt động kiềm kẹp quần chúng. Ngày 20-2-1975, địch mở cuộc càn vào khu vực Bình Chánh, Khánh Vân, Vĩnh Tân, Tân Hiệp, với lực lượng gồm 2 tiểu đoàn biệt động quân (46, 93), 1 tiểu đoàn bộ binh thuộc Trung đoàn 8, Sư đoàn 5, 1 tiểu đoàn bảo an 333, 3 chi đoàn thiết giáp cùng phi pháo yểm trợ. Ngày 28-2, địch sử dụng ba chi đoàn cơ giới cùng bộ binh càn vào khu vực Ông Đông, Bà Tri, ủi phá địa hình hòng lập tuyến ngăn chặn nam đường 16, đông nam Châu Thành, từ Bến Sắn đến dọc đường số 8. Đầu tháng 3-1975, Trung đoàn 43, Sư đoàn 18 lại càn vào Đất Cuốc, Suối Cái để thăm dò lực lượng ta. Địch dùng máy bay ném bom đánh phá vào các xã, ấp vùng giải phóng.

Thực hiện quyết tâm của Tỉnh ủy, lực lượng huyện Tân Uyên, Châu Thành, phối hợp với các đơn vị bộ đội của tỉnh liên lục chiến đấu chống càn. Dựa vào địa hình và thế trận căn cứ bám trụ, bộ đội tỉnh, huyện cùng du kích các xã bố trí sẵn mìn trái kết hợp phục kích, tập kích, chặn đánh và tiêu diệt hơn 100 tên địch, phá hủy 23 xe tăng, xe bọc thép, thu nhiều vũ khí và đồ dùng quân sự. Địch không thực hiện được ý đồ lấn chiếm vùng giải phóng mà còn bị đánh bật khỏi bàn đạp Châu Thành, nam Tân Uyên buộc chúng phải rút quân về phòng thủ.

Những ngày cuối tháng 3-1975, tin chiến thắng dồn dập từ các cuộc tiến công và nổi dậy của quân và dân ta ở Tây Nguyên, Huế, Đà Nẵng làm nức lòng quân và dân cả nước. Ngày 31-3-1975, Bộ Chính trị họp và khẳng định: Cuộc chiến tranh cách mạng không những đã bước vào giai đoạn phát triển nhảy vọt mà thời cơ chiến lược để tiến hành tổng công kích, tổng khởi nghĩa vào sào huyệt của địch đã chín muồi, tốt nhất là trong tháng 4-1975, không thể để chậm.

Trước sự phát triển rất nhanh của tình hình, ngày 2-4-1975, Thường vụ Trung ương Cục chỉ thị cho các Tỉnh ủy và lực lượng vũ trang: “táo bạo, đánh các điểm then chốt kể cả các tiểu khu, thị xã, khi có thời cơ”([2]) và “bằng tất cả khả năng sẵn có của địa phương mà mạnh dạn, táo bạo phát động quần chúng nổi dậy khởi nghĩa, ấp giải phóng ấp, xã giải phóng xã, huyện giải phóng huyện, tỉnh giải phóng tỉnh bằng lực lượng của bản thân phối hợp với chiến trường chung”([3]).

Thực hiện quyết tâm chiến lược của Đảng, Chỉ thị của Trung ương Cục, ngày 2-4-1975, Thường vụ Tỉnh ủy có Chỉ thị 03/CT-TU cho Đảng bộ và quân, dân trong tỉnh yêu cầu cấp ủy các địa phương phải hết sức nhạy bén, linh hoạt, táo bạo, chủ động tiến công để phối hợp với chiến trường chung giành thắng lợi lớn…

Người dân Bắc Tân Uyên cùng hàng ngàn dân công của tỉnh được huy động tham gia tải gạo, tải đạn ra chiến trường, chuẩn bị cho bộ đội tập kết lực lượng và cơ động chiến đấu. Du kích các xã thuộc Bắc Tân Uyên đẩy mạnh tiến công, vây ép địch, không cho chúng bung ra ngoài hoạt động. Trong các xóm ấp, cán bộ ta bám trụ xây dựng cơ sở, phát động quần chúng nổi dậy đấu tranh, gọi hàng binh lính địch. Chỉ hơn một tuần lễ đầu tháng 4-1975, một số xã như Bình Mỹ, Tân Hòa… hàng chục lính đào rã ngũ, nhiều toán phòng vệ dân sự tự động giải tán, mang súng trở về tham gia du kích xã, góp phần đánh địch lập công.

Ngày 18-4-1975, Ủy ban Mặt trận dân tộc giải phóng và Ủy ban nhân dân cách mạng tỉnh Thủ Dầu Một ra lời kêu gọi: Toàn thể cán bộ, chiến sĩ, các cấp, các ngành, các vùng hãy phát huy cao độ vai trò tiên phong gương mẫu, kiên cường, bất khuất, đạp bằng mọi gian khổ, hy sinh, quyết cùng đồng bào liên tục tấn công, đập tan bộ máy kiềm kẹp của địch, giành toàn bộ chính quyền về tay nhân dân.

Ngày 26-4-1975, từ các căn cứ cách mạng và vùng giải phóng, hàng vạn cán bộ, chiến sĩ của lực lượng vũ trang trong tỉnh cùng 2 sư đoàn chủ lực của Quân đoàn 1 và Đoàn 113 đặc công của Quân khu vượt qua bom đạn của kẻ thù, ào ạt tiến về mục tiêu theo kế hoạch.

Trong lúc này, tại Chi khu Tân Uyên và các khu vực trọng yếu xung quanh, lực lượng địch vẫn còn khá mạnh, gồm toàn bộ hậu cứ Trung đoàn 48, Sư đoàn 5, một đại đội pháo 105ly, một đại đội bảo an, một đại đội thủy quân lục chiến…

Đêm 26 rạng ngày 27-4-1975, Tiểu đoàn 2 Phú Lợi của tỉnh được pháo binh Quân đoàn 1 chi viện, nổ súng tấn công cứ điểm Bình Mỹ, Bình Cơ, tiêu diệt Tiểu đoàn 306 bảo an (tiểu đoàn có nhiều nợ máu với nhân dân), bắt sống 17 tên, thu 92 súng các loại. Phối hợp với đòn tiến công quân sự, chi bộ lộ, cơ sở mật xã Bình Mỹ đã lãnh đạo vận động quần chúng nổi dậy phá ấp chiến lược, truy bắt tề điệp, kêu gọi binh lính ra hàng. Xã Bình Mỹ hoàn toàn giải phóng, ta làm chủ một đoạn đường 16 dài gần 10km, từ ấp 1 Bình Mỹ đến cầu Bình Cơ. Chiến thắng Bình Mỹ đã chọc thủng tuyến phòng ngự phía bắc thị xã Thủ Dầu Một, mở thông đầu cầu cho các cánh quân của Quân đoàn 1 áp sát mục tiêu được an toàn. Cũng trong thời gian này, Nguyễn Văn Thiệt, Quận trưởng Tân Uyên đã vội chuyển cả gia đình qua Cù lao Mỹ Quới (nay thuộc xã Bạch Đằng), còn tên đại úy Tâm - Đại đội trưởng đại đội pháo 105ly vẫn lớn tiếng kêu gọi binh lính tử thủ đến cùng.

Thực hiện phương châm “Xã giải phóng xã, huyện giải phóng huyện, tỉnh giải phóng tỉnh”, Huyện ủy Tân Uyên đã quyết định phát động quần chúng nổi dậy phối hợp với cuộc tiến công của bộ đội chủ lực. Ngay trong ngày 28-4, du kích xã Bình Chánh, Khánh Vân, Phước Thành phát động quần chúng nổi dậy bức rút đồn Ông Thượng, bót 18 (Bình Chánh), chốt cầu Suối Cát (Khánh Vân); bộ đội địa phương huyện cùng du kích bao vây bức rút đồn dân vệ cây Sao Khô, bót sở 49. Bộ máy kiềm kẹp của địch số bị diệt, số bị tan rã, ta hoàn toàn làm chủ hai xã Bình Chánh, Khánh Vân.

2. Giải phóng Bắc Tân Uyên:

Đêm 28 rạng ngày 29-4-1975, lực lượng ta pháo kích Chi khu Tân Uyên, đồng thời các lực lượng địa phương áp sát vào thị trấn. Tuy nhiên với lực lượng mạnh hơn ta nên địch phản công dữ dội, lực lượng ta bị tổn thất. Trước tình hình đó, khả năng dùng lực lượng tại chỗ để giải phóng trung tâm đầu não địch ở Tân Uyên khá khó khăn. Trong lúc này, đồng chí Huỳnh Tư với vai trò là Tỉnh đội phó Tỉnh đội Thủ Dầu Một được phân công đến đón cánh quân thuộc Quân đoàn 1 để mở mũi dẫn đường tiến về giải phóng Sài Gòn cũng vừa hành quân đến đây. Đồng chí Huỳnh Tư đã quyết định hướng đoàn quân chủ lực theo lộ 16 hành quân qua thị trấn cùng phối hợp với lực lượng địa phương huyện đè bẹp sự kháng cự của địch, nhanh chóng tiến về Sài Gòn vừa góp phần giải phóng Tân Uyên.

Gần 9 giờ sáng 29-4-1975, đoàn xe tăng dưới sự hướng dẫn của đồng chí Huỳnh Tư nã đạn tới tấp vào Chi khu Tân Uyên cùng các ổ đề kháng của địch. Các mũi tấn công của lực lượng ở Tân Uyên cũng đồng loạt xông lên phối hợp. Cùng với những tiếng đạn nổ liên hồi và tiếng xe tăng của ta gầm rú làm cho lực lượng của địch trong Chi khu hỗn loạn tháo chạy ra bến sông. Bọn chúng cướp ghe, xuồng của dân, rồi tự bắn vào nhau để tranh giành phương tiện chạy thoát thân. Trong cảnh hỗn loạn này, những tên lính cuối cùng của Đại đội pháo 105ly trước khi buông súng đầu hàng đã quay súng bắn tên đại úy Tâm cùng các sĩ quan chỉ huy đại đội, cũng như bắn chìm chiếc canô chở bọn chúng.

9 giờ 15 phút ngày 29-4-1975, Chi khu Tân Uyên được hoàn toàn giải phóng. Sau đó các xã còn lại trong huyện, quần chúng nhân dân kết hợp với lực lượng du kích nổi dậy áp đảo tinh thần địch. Cộng với tin Chi khu huyện lỵ bị thất thủ khiến cho tinh thần quân giặc thêm hỗn loạn. Bọn địch ở các đồn bót đều bỏ súng đầu hàng hoặc tìm đường tháo chạy. Khắp nơi trong huyện, nơi nào cũng hừng hực khí thế cách mạng, cùng nhau truy tìm bọn ác ôn đã gây nhiều nợ máu với nhân dân. Trưa ngày 29-4-1975, gần 200 binh lính, sĩ quan của địch đã cởi bỏ quân phục, giày đinh chạy bộ từ Phú Giáo qua Cầu Sông. Du kích xã Tân Hòa, Tân Bình, Bình Mỹ đã chặn bắt sống, tiêu diệt một số tên ngoan cố. Đến chiều ngày 29-4-1975, toàn bộ các xã trong huyện đều được giải phóng. Đồng chí Huỳnh Tư, Tỉnh đội phó tỉnh Thủ Dầu Một - từng là Huyện đội trưởng Tân Uyên, tiếp tục vai trò mở mũi dẫn đường, đưa cánh quân chủ lực - quả đấm thép Quân đoàn 1 với xe tăng, xe thiết giáp tiến quân theo ngõ Bình Chuẩn qua cầu Bình Trị tiến đánh Bộ Tổng tham mưu và cắm cờ tại đây đúng 11 giờ trưa ngày 30-4-1975, góp phần giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.

[Tải File Word bài này]

Vũ Tuấn Trình
Giáo viên GDQPAN trường THPT Lê Lợi
Bắc Tân Uyên-Bình Dương 15/3/2023

[xem lại phần 1]

-------------------------------------------------------------------------------------------------

([1]) Nghị quyết Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng (tháng 1-1975).
([2]) Chỉ thị số 340 -TW của Thường vụ Trung ương Cục ngày 2-4-1975.
([3]) Chỉ thị số 340 -TW của Thường vụ Trung ương Cục ngày 2-4-1975.
In bài viết
Đăng ký | Đăng nhập

Email / Điện thoại

Mật khẩu

Nhớ mật khẩu | Quên mật khẩu

VŨ TUẤN TRÌNH

Điện thoại: 0918. 154511 - hoặc: 0977. 120048
Email: vutuantrinh@moet.edu.vn hoặc trinhvt@leloi.sgdbinhduong.edu.vn 
Địa chỉ: Số 03, đường Tân Thành 37, khu phố 5, Thị trấn Tân Thành, huyện Bắc Tân Uyên, tỉnh Bình Dương.

1
Bạn cần hỗ trợ?